Pages

Chất lượng giáo dục VN hơn Mĩ và Úc: Một diễn giải khác

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Tuần vừa qua, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vừa công bố một báo cáo về kĩ năng cơ bản phổ quát của học sinh thuộc 76 nước trên thế giới. Theo đó, Việt Nam đứng hạng 12, trên cả các nước tiên tiến như Mĩ, Úc, và nhiều quốc gia Âu châu.

Kết quả này làm cho giới quản lí giáo dục có lí do tốt đề hài lòng. Nhưng chính kết quả đó cũng làm cho rất nhiều người ngạc nhiên, vì… khó tin. Cũng như trong nghiên cứu khoa học, bất cứ một kết quả nào quá đẹp, thì thái độ đầu tiên phải là nghi ngờ, và đòi hỏi bằng chứng thuyết phục hơn nữa, kết quả xếp hạng của OECD cũng thế. Trong bài này tôi muốn diễn giải kết quả đó theo một cách nhìn khác.



Không phản ánh chất lượng giáo dục  
Chất lượng giáo dục là một vấn đề rất khó định lượng, càng khó so sánh. Các chuyên gia giáo dục thường đánh giá chất lượng của một nền giáo dục qua 3 nhóm chỉ tiêu liên quan đến đầu vào (input), qui trình (process), và đầu ra (output).  
Đầu vào có thể là nguồn lực và tài chính đầu tư cho giáo dục, cơ sở vật chất của hệ thống trường học, trình độ chuyên môn của thầy cô, v.v. Các chỉ tiêu liên quan đến qui trình thường tính đến sự bình đẳng trong giáo dục giữa các thành phần xã hội, sự chuyển tiếp từ trường học sang lao động, môi trường học tập, và tổ chức.  
Các chỉ tiêu phản ánh đầu ra bao gồm điểm thi các môn học (văn, toán, khoa học, ngoại ngữ, v.v.), tỉ lệ bỏ học, tỉ lệ vào đại học, tỉ lệ ở lại lớp, v.v. Nói chung, để đánh giá chất lượng giáo dục một cách khách quan và đầy đủ đòi hỏi rất nhiều nỗ lực nghiên cứu và phân tích các chỉ tiêu trên. Nên nhớ rằng các chỉ tiêu trên thường mang tính địa phương và phụ thuộc vào văn hoá, nên việc so sánh chất lượng giữa các quốc gia là một việc làm rất khó khăn.  
Kết quả xếp hạng của OECD không có tính tổng hợp như tôi vừa mô tả. Thật ra, cách xếp hạng của OECD rất đơn giản: họ dựa vào điểm kiểm tra môn toán và khoa học của một nhóm học sinh 15 tuổi tham gia vào chương trình kiểm định PISA năm 2012. Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Chương trình kiểm định PISA năm 2012 tập trung vào môn toán, nhưng cũng có đánh giá môn khoa học, và đọc và hiểu.  
Kết quả chương trình PISA 2012 cho thấy điểm toán của học sinh Việt Nam là 511 điểm, cao hơn 17 điểm so với trung bình các nước OECD (494 điểm). Điểm môn khoa học của học sinh Việt Nam là 528 điểm, cao hơn trung bình OECD đến 27 điểm. Dựa vào kết quả hai môn này, năm nay OECD xếp Việt Nam đứng hạng 12 toàn cầu. Với hạng này, Việt Nam cao hơn Úc, Mĩ, Pháp, Anh, nhưng thấp hơn Singapore (hạng 1), Hồng Kông (hạng 2), Hàn Quốc (hạng 3), Nhật và Đài Loan (hạng 4), Phần Lan, Thuỵ Sĩ, Hà Lan, Canada, và Ba Lan.  
Do đó, cách xếp hạng của OECD như mô tả trên không phản ánh chất lượng giáo dục. Không cần nói ra, chúng ta cũng thấy chương trình kiểm định như thế không phản ảnh toàn bộ khả năng học tập của học sinh. Nó càng không phản ảnh được môi trường học tập vốn được xem là quan trọng hơn 3 môn học đó.  
Có lẽ kết quả PISA cho thấy các em học sinh Việt Nam tham gia đã thuộc bài tốt, và ngoài cái đó thì chúng ta không biết các em còn tốt/dở khía cạnh nào khác. Không thể nào chỉ dựa vào hai môn học của một nhóm học sinh 15 tuổi để nói về chất lượng giáo dục của một quốc gia. Nếu làm như thế thì quả thật đó là cách làm quá phiến diện.  
Điều quan trọng cần phải hiểu đúng là kết quả của PISA do đó chỉ là một “bức tranh” ở một thời điểm nhất định, chứ không phản ảnh điểm lâu dài của học sinh. Ngoài ra, còn có nghiên cứu cho thấy những em học sinh có điểm cao trong PISA không phải là những em có thành tích học tập tốt sau đó. Nói cách khác, điểm PISA không phản ảnh đúng trình độ học tập của học sinh. Vì thế, điểm PISA không phản ánh được chất lượng của một nền giáo dục. 
Tính đại diện của kết quả?  

Có bằng chứng cho thấy những em học sinh ở Việt Nam tham gia vào chương trình kiểm định của PISA không mang tính đại diện cho cả nước. Một bài báo trên Vietnamnet năm 2013 cho chúng ta biết rằng "Để giới thiệu về các lĩnh vực Toán, Khoa học, Đọc hiểu, VN đã nghiên cứu kỹ tất cả các dạng bài thi PISA đã công bố, tóm tắt và khái quát các dạng bài thi với các yêu cầu kỹ thuật làm từng dạng bài thi, từng loại câu hỏi để giáo viên nắm được kỹ thuật về giới thiệu cho học sinh. Tiếp đó, ngành GD-ĐT tổ chức tập huấn cho cán bộ cốt cán từ trung ương đến địa phương.  
Để đưa PISA vào trường phổ thông, Bộ chỉ đạo trên toàn quốc các giáo viên đã được tập huấn PISA thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tuần, thảo luận từng dạng bài thi và các dạng câu hỏi thi PISA. Giáo viên giới thiệu cho học sinh một số câu hỏi thi PISA được in trong tài liệu tập huấn. Có trường xây dựng được mạng nội bộ đã đưa lên mạng các dạng bài thi PISA cho học sinh làm, mở cuộc thi nhỏ tìm hiểu về PISA." Như vậy đây Việt Nam đã chuẩn bị các em cho cuộc thi chọi này, chứ các em không được chọn một cách ngẫu nhiên. 
Cách huấn luyện "gà chọi" này làm cho kết quả các môn toán, khoa học, và đọc và hiểu của Việt Nam khá khác với các nước khác. Ở các nước như Úc và Mĩ người ta không có những chương trình huấn luyện gà chọi như Việt Nam. Do đó, kết quả của các nước này có độ khác biệt cao hơn so với Việt Nam.  
Độ khác biệt giữa các học sinh có thể phản ảnh qua hệ số biến thiên. Tôi đã tải dữ liệu PISA và phân tích hệ số biến thiên giữa các học sinh ở Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Úc, và Mĩ (Bảng 1). Như có thể thấy, các nước khác, ngay cả Singapore có điểm cao nhất, có hệ số biến thiên cao hơn Việt Nam.
Bảng 1: Điểm trung bình và phần trăm khác biệt giữa các học sinh (%) 

Nước
Trung bình
Hệ số biến thiên
Điểm môn toán
Việt Nam
511
16
Thái Lan
441
21
Singapore
568
18
Úc
493
20
481
19
Điểm môn khoa học
Việt Nam
528
14
Thái Lan
456
18
Singapore
547
19
Úc
511
20
498
19

Chẳng hạn như điểm môn toán, độ khác biệt giữa các học sinh Việt Nam chỉ 16%, rất thấp so với Thái Lan (21%), Úc (20%) và Mỹ (19%). Ngay cả điểm môn khoa học cũng là một ngạc nhiên, vì độ khác biệt giữa các học sinh Việt Nam chỉ 14%, so với 19-20% ở các nước khác. Tôi nghĩ rằng hệ số biến thiên của Việt Nam thấp một cách ngạc nhiên là do có sự huấn luyện rất tốt trước khi tham gia chương trình kiểm tra PISA. Điều đó cũng cho thấy điểm thi của học sinh Việt Nam trong chương trình PISA không hề đại diện cho quần thể học sinh của cả nước.
Vấn đề dữ liệu
PISA là một chương trình kiểm định được thiết kế rất bài bản và nghiêm chỉnh. Nhưng khi thực hiện ở qui mô lớn thì có nhiều vấn đề phát sinh. Có một sự thật rất quan trọng nhưng ít ai chú ý là vấn đề thiếu dữ liệu. Chỉ có khoảng 10% học sinh trả lời tất cả 28 câu hỏi đọc hiểu. Điều này có nghĩa là nếu một em học sinh có điểm khoa học là 500 (cũng là điểm trung bình của khối OECD) thì em này chỉ trả lời được 46% câu hỏi mà thôi. Một học sinh có điểm 400 nghĩa là em này chỉ trả lời 23% số câu hỏi. Nói cách khác, rất nhiều câu hỏi không được trả lời. 
Sự thật trên có nghĩa gì? Nó có nghĩa là khi PISA so sánh giữa các nước thì chẳng khác gì so sánh giữa trái cam và trái táo. Một ví dụ để minh họa: học sinh Việt Nam có thể trả lời câu hỏi 1-20, còn học sinh Trung Quốc có thể trả lời câu hỏi 15-28. Những câu hỏi mà học sinh Việt Nam trả lời có thể khó hơn những câu hỏi mà học sinh Trung Quốc trả lời. Do đó, khi so sánh giữa hai nhóm thì kết quả sẽ khó mà khách quan. 
Trong tình huống câu hỏi bị bỏ trống như thế, các nhà phân tích của PISA làm gì? Họ sử dụng một mô hình thống kê có tên là Rasch để khắc phục vấn đề. Rất khó giải thích mô hình Rasch trong bài này, nhưng phương pháp này dựa vào giả định rằng các câu hỏi có trọng số như nhau, và cách lấp vào khoảng trống các câu hỏi là dùng xác suất hậu định (posterior probability). Giả định này rất "mạnh" (hiểu theo nghĩa thiếu tính thực tế), bởi vì câu trả lời hay khả năng trả lời có thể còn tuỳ thuộc vào văn hoá của từng nước. 
Ngoài ra, họ sử dụng một phương pháp thống kê khác có tên là imputation để lấp vào những câu hỏi mà học sinh bỏ trống. Phương pháp này có thể giải thích nôm na như sau: dựa vào các câu trả lời mà các em học sinh đã làm, nếu các em học sinh trả lời tất cả các câu hỏi, thì kết quả sẽ xảy ra có thể ước tính.   
Nói cách khác, các nhà nghiên cứu tạo ra dữ liệu không có thật!  Đây là một phương pháp khá nguy hiểm vì nó tuỳ thuộc vào những câu trả lời mà các em học sinh đã nỗ lực trong test. Trong các công trình nghiên cứu quan trọng rất ít ai dám ứng dụng phương pháp imputation vì nó có thể dẫn đến sai lệch nghiêm trọng. 
Dữ liệu một chiều
Về mặt kĩ thuật, tất cả những câu hỏi của PISA rất tương quan với nhau. Dù thi 3 môn nhưng điểm 3 môn rất tương quan với nhau, nên chỉ cần biết một môn là giải thích 75% môn kia. Nói cách khác các môn học chỉ phản ảnh một yếu tố đơn thôi, nếu thiết kế tốt các môn học sẽ ít tương quan với nhau. Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là khi PISA xếp hạng giữa các nước chủ yếu là dựa vào yếu tố này, nhưng yếu tố này không đồng đều giữa các nước.  
Nói cách khác, thứ hạng của một nước trong bảng xếp hạng có thể thay đổi nếu xem xét đến yếu tố thứ 2 hay thứ 3. Nói cách khác nữa, bảng xếp hạng của PISA không nói gì về sự thông minh của học sinh Việt Nam. 
Vì những vấn đề về phương pháp, việc so sánh hay xếp hạng giữa các nền giáo dục có nền tảng văn hoá và triết lí giáo dục khác nhau càng làm cho vấn đề trở nên khó diễn giải. Ở đây, tôi phải mở ngoặc để nói thêm rằng ngoài PISA, còn có nhóm xếp hạng  dựa vào chương trình TIMSS (Trends in International Maths and Science Study – Xu hướng học toán và khoa học quốc tế) cũng là một nhóm xếp hạng giáo dục có uy tín.  
Nhưng kết quả xếp hạng của PISA và TIMSS không nhất quán với nhau. Chẳng hạn như Phần Lan có năm đứng đầu trong bảng xếp hạng của PISA, nhưng lại đứng hạng trung bình của TIMSS. Rất nhiều trường hợp như thế đã xảy ra trong quá khứ. Chúng ta phải rất thận trọng, không nên quá đặt nặng hay quá tin vào các chương trình đánh giá và xếp hạng như PISA hay TIMSS. 
Nói tóm lại, các phân tích trên đây cho phép tôi diễn giải kết quả xếp hạng giáo dục một cách khác với cách hiểu của giới báo chí, và có lẽ cũng khác với cách hiểu của OECD. Rõ ràng, kết quả hai môn toán và khoa học của một nhóm học sinh thiếu tính đại diện cho cả nước thì không thể nào phản ảnh chất lượng giáo dục của Việt Nam.  
Trong khoa học xã hội, người ta phân biệt cái gọi là tính hợp lí bề mặt và hợp lí nội tại. Kết quả xếp hạng của OECD về nền giáo dục Việt Nam dựa trên điểm kiểm định trong chương trình PISA nhìn bề ngoài thì có tính hợp lí vì nó được thiết kế một cách có hệ thống và được thu thập dữ liệu đúng qui trình. Nhưng những kết quả bằng con số thống kê đó không phản ảnh được cái phần "chất" của nền giáo dục, không biết đến con số hơn 100 ngàn học sinh Việt Nam đang "tị nạn" giáo dục ở nước ngoài, kể cả ở những nước như Úc và Mỹ mà bảng xếp hạng OECD cho là kém hơn Việt Nam.  
Chỉ có người ở trong chăn mới biết chăn có rận; con số thống kê của OECD không bao giờ nhận dạng được những bất cập trong nền giáo dục Việt Nam. Do đó, nói một cách dân dã vừa ngắn gọn vừa dễ hiểu: bảng xếp hạng giáo dục của OECD nói vậy mà thực tế không phải vậy.

Bài đã đăng trên Tuần Việt Nam:
(1) Phần I: http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/237596/viet-nam-vuot-my--uc-nho----luyen--ga-choi--.html
(2) Phần II: http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/237878/giao-duc-vn--vuot-mat--my--noi-vay-ma-khong-phai-vay.html

Read more ...

Chất lượng giáo dục VN hơn Mĩ và Úc!

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2015
Việt Nam được xếp hạng 12 trên thế giới về chất lượng giáo dục, và với hạng này, chất lượng giáo dục Việt Nam vượt cả Mĩ và Úc (1). Ngạc nhiên? Đó là bảng xếp hạng do nhóm OECD làm, chứ không phải của một nhóm "lơ tơ mơ" nào đâu nhé. Đây có lẽ là một bản tin làm liều thuốc an thần cho rất nhiều người trong ngành giáo dục. Nhưng như người ta thường nói, một phát ngôn mạnh cần phải có những bằng chứng rất tốt. Ngay cả là OECD thì chúng ta cũng phải xét chứng cứ, dữ liệu, chứ đừng bao giờ tin vào hào quang của họ. (Hào quang có khi là giả tạo, dỏm). Tôi e rằng bằng chứng về xếp hạng của OECD chỉ là loại bài tập thống kê, chứ chẳng có ý nghĩa gì trong thực tế.


Đánh giá và xếp hạng một nền giáo dục, không nói ra ai cũng biết là, đòi hỏi nhiều nỗ lực và dữ liệu. Dữ liệu phải từ đầu vào (input), qui trình (process), và đầu ra (output). Mỗi tiêu chí cần phải có nhiều chỉ số định lượng. Quần thể đánh giá phải là tất cả cấp học, từ tiểu học đến trung học. Đề tài đánh giá phải là tổng thể các môn học, chứ không thể tập trung vào 1-2 môn nào đó. Ấy thế mà OECD đánh giá bằng con đường tắt. Họ làm hết sức đơn giản, chỉ dựa vào 1 đầu ra: họ dùng kết quả kiểm tra PISA môn toán và khoa học của 76 quốc gia tham gia vào chương trình kiểm định PISA. Do đó, nói là “toàn cầu” đã là không đúng với sự thật. Một nền giáo dục đâu thể nào đánh giá qua chỉ 2 điểm toán và khoa học của một nhóm học sinh 15 tuổi và chỉ của một năm học. Thật là ngớ ngẩn đến khó tin!

Ngay cả điểm PISA cũng có nhiều vấn đề. Tôi đã download toàn bộ cơ sở dữ liệu PISA của Việt Nam để xem qua cho thoả tính tò mò. Rất nhiều số liệu là “missing data” (do các em học sinh làm bài không được), nên họ phải sử dụng kĩ thuật “imputation” để lấp vào các giá trị khống. Nói cách khác, nhiều số liệu cấp học sinh chỉ là kểt quả của mô hình thống kê, chứ không phải thu thập thực tế từ học sinh. Kĩ thuật imputation là phương pháp khoa học chính thống, nhưng áp dụng cho tình huống quá nhiều missing data thì rất nguy hiểm. Ngoài ra, còn có nhiều vấn đề khác mà tôi đã trình bày trong bài nói chuyện trong Câu lạc bộ “Cà phê Thứ Bảy” ở Sài Gòn hồi năm ngoái (2), và một bài báo trên Tuần Việt Nam (3). Vấn đề không chỉ đơn giản là điểm trung bình nước A cao hơn nước B; vấn đề còn là mức độ khác biệt giữa các học sinh trong một nước, và đó mới phản ảnh một phần chất lượng. Nói tóm lại, có rất nhiều vấn đề về phương pháp trong dữ liệu PISA mà chúng ta phải dè dặt.

Người ta có câu “Garbage in, Garbage out” – đầu vào là rác, thì đầu ra cũng là rác, bất kể sử dụng phương pháp thống kê hay toán học tinh vi nào. Do đó, xếp hạng chất lượng giáo dục dựa vào điểm PISA của 2 môn học (toán và khoa học) từ một nhóm học sinh 15 tuổi là sai ngay từ căn bản, sai từ ý tưởng đến phương pháp. Tiếng Anh có chữ “simplistic”, rất thích hợp cho loại xếp hạng này. Đối với người làm toán hay thống kê loại “connoisseur” thì họ có thể thích làm xếp hạng như thế, nhưng với người có đầu óc khoa học và có suy nghĩ thì đó chỉ là một dạng làm “exercise” mà thôi. Vậy xin các nhà báo và giới quản lí giáo dục đừng quá tốn thì giờ cho loại “trò chơi con số” (mượn chữ của ông tổ cộng sản là V. Lenin) như kiểu xếp hạng của OECD.

===


(2) Bài nói chuyện CLB Cà Phê Thứ Bảy:

Read more ...

Paris by Night lên sóng truyền hình Việt Nam!

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015
Chuyện khó tin nhưng có thật! Chương trình "Giọng hát Việt 2015" cho phát hình ca khúc "Hà Nội 12 mùa hoa" do Thu Phương trình diễn. Bài này đã được trình diễn trong một chương trình ca nhạc của Paris by Night 110 trước đây. Đó chẳng phải là tín hiệu "hoà hợp" dân tộc sao? Nhưng không hẳn vậy, một bài báo trên Vietnamnet đã gián tiếp chỉ trích VTV3 làm một việc không tốt, vì "chương trình Paris By Night hiện vẫn chưa được cho phép biểu diễn và phát hành tại Việt Nam." Chỉ một sự việc nhỏ như thế cũng nói lên cái khoảng cách giữa người Việt trong và ngoài nước (hay miền Nam và miền Bắc) còn rất xa.



Thú thật các bạn, cứ mỗi lần nghe một chương trình văn nghệ "chưa được xin phép" là tôi thấy ... hỡi ơi. Văn nghệ mà phải xin phép? Sự kiểm soát văn nghệ và sáng tạo văn nghệ chắc chỉ có trong thế giới XHCN ngày xưa. Nhưng sự kiểm soát đó vẫn tồn tại ở VN, và điều đó cho thấy VN vẫn chưa thật sự đổi mới. Cách kiểm soát văn nghệ ở VN vẫn là mô hình thời bao cấp, chưa theo kịp tiến bộ của thế giới về thông tin và truyền thông. Chỉ cần truy cập được internet thì người ta có thể xem bất cứ chương trình nhạc nào, chẳng cần biết ai cho phép hay không.

Tôi chẳng phải là một fan của các chương trình ca nhạc tạp kĩ như PBN. Nhưng tôi phải công nhận một điều là trong các chương trình ca nhạc ở hải ngoại, PBN là chương trình có phẩm chất tốt nhất, có văn hoá nhất, và có đóng góp quan trọng cho việc duy trì nền văn hoá Việt Nam và văn nghệ miền Nam. Trong suốt >30 năm qua, hãng Thuý Nga đã sản xuất hơn 100 chương trình PBN và trở thành một cái tên quen thuộc của người Việt trong và ngoài nước. Nói như một kí giả Mĩ, trong mỗi gia đình của người Việt hải ngoại có 3 cái: cơm gạo, chai nước mắm, và DVD Thuý Nga Paris by Night. Đó là sự thật. Sự thành công của Thuý Nga PBN còn là mô hình cho nhiều trung tâm khác, và thậm chí ở trong nước người ta cũng bắt chước theo PBN (nhưng chưa tốt mấy về mặt kĩ thuật). Tôi nghĩ nếu PBN được phép hoạt động ở VN thì chắc các chương trình ca nhạc do Nhà nước bảo trợ khó mà sống nổi.

Chẳng có ai chỉ đạo chính trị trong các chương trình PBN cả. Tất cả xuất phát từ nhu cầu giải trí và tinh thần thôi. Những năm đầu xa VN, người Viêt rất nhớ nhà và nhớ người thân còn trong các trại tù cải tạo nên có những chương trình đáp ứng nhu cầu đó. Người ta có thể không đồng quan điểm chống cộng của Việt Dũng, nhưng ai cũng thấy "Một chút quà cho quê hương" nói lên được tâm trạng của họ. Thử hỏi ở trong nước có trung tâm nào làm được những chương trình có giá trị văn hoá như "Chúng ta đi mang theo quê hương" hay "Cây đa bến cũ" của Thuý Nga. Nhưng chương trình đó chẳng có gì là chính trị cả. Người MC là ông Nguyễn Ngọc Ngạn cũng chưa bao giờ nói gì mang tính chính trị hay cực đoan trên sân khấu PBN cả. Thật ra, ông này phải nói là một MC tài ba mà chưa có MC nào ở Việt Nam và nước ngoài so sánh được. Theo nhiều ca sĩ và nhạc sĩ Phạm Duy, ông chủ của Thuý Nga PBN cũng là người rất đàng hoàng, có tư cách, và yêu văn hoá Việt Nam (ông xuất thân là một giáo sư trung học thời trước 1975).

Ấy thế mà bài báo trên VNN viết "Tuy nhiên, bên cạnh những bài hát, nội dung đặc sắc phù hợp với đông đảo khán giả, một số chương trình có những nội dung không phù hợp về yếu tố chính trị" làm tôi thắc mắc không rõ nội dung nào không phù hợp chính trị? Có lẽ là mấy chương trình hồi thập niên 1980s nói về thân phận người biệt xứ do Nhà văn Duyên Anh viết lời dẫn, hoặc chương trình Hà Nội - Huế - Sài Gòn có nhắc đến vụ thảm sát Tết Mậu Thân? Tôi thì thấy mấy chương trình đó chẳng có gì mang màu sắc chính trị cả; chỉ là những gợi nhớ một thời đau đớn trong lịch sử. Không nên dấu giếm, và cần phải nói và nhắc lại những sự kiện đó để thế hệ sau hiểu biết hơn và thông cảm nhau hơn. Cũng không nên kì vọng người Việt ở hải ngoại say mê theo những bài ca như Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, Sài Gòn quật khởi, Tiếng chày trên sóc Bom Bo, Giải phóng miền Nam, v.v. (Thật ra, ngay cả người trong nước cũng chẳng còn mấy ai mặn mà với những ca khúc đó).

Cho dù các chương trình ca nhạc của PBN bị cấm hay không được cho phép, các chương trình này vẫn tồn tại ở trong nước. Có lần ngồi ăn ở đường Nguyễn Trãi (Sài Gòn) tôi phát hiện là mấy chiếc xe lưu động bán đầy các DVD của hãng Thuý Nga, Asia, Vân Sơn, v.v. ở hải ngoại. Họ thậm chí có những DVD mới nhất mà tôi chưa xem qua! Do đó, việc công nhận hay cấm đoán các chương trình ca nhạc ở hải ngoại sẽ chẳng có ý nghĩa gì trong thực tế. Người dân vẫn tìm nghe các chương trình ca nhạc đó, và họ có nhiều cách để nghe. Việc cấm đoán chỉ tạo ra một thị trường đen băng đĩa lậu mà thôi.

Tại sao các tác phẩm văn học cũ ở miền Nam trước 1975 đã được tái xuất bản, mà lại đi ngăn cấm các chương trình ca nhạc? Các nhà văn và thi sĩ đã "hoà hợp" từ lâu, tại sao trong giới ca nhạc sĩ vẫn còn có khoảng cách trong và ngoài nước là câu hỏi khó có câu trả lời. Thật ra, nói vậy cũng chưa đúng, vì chẳng có khoảng cách nào giữa ca sĩ trong và ngoài nước (ngoại trừ vài trường hợp cá biệt), ca sĩ trong nước ra ngoài hát, và ca sĩ nước ngoài về VN hát rất ư là bình thường rồi. Do đó, "trái banh hoà hợp" đang nằm trong sân của Nhà nước và những tờ báo "lề phải", chứ không phải trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

====

(1) http://vietnamnet.vn/vn/van-hoa/236793/vtv-lai-vuong-scandal-phat-song-paris-by-night.html 
Read more ...

Nghiên cứu khoa học ngành kinh tế ở VN: èo uột

Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Mới đọc một bài phỏng vấn Gs Lê Văn Cường (Pháp) bàn về việc lập một đại học kinh tế ở VN (1), mà theo cách nói, tôi đoán là kiểu London School of Economics (?) Bài phỏng vấn có nhiều nhận xét tôi thấy đáng chú ý về trình độ nghiên cứu sinh ở trong nước.



Gs LVCường cho biết rằng rất nhiều công trình nghiên cứu của giảng viên các đại học kinh tế ở VN chỉ "ngang tầm những công trình của một sinh viên vừa tốt nghiệp năm thứ nhất (M1), hay năm thứ hai (M2) Master của các đại học kinh tế ở châu Âu." Qua khảo sát các website của trường đại học ông đi đến nhận xét rằng "Số giảng viên làm nghiên cứu có bài đăng tạp chí quốc tế tốt rất nhỏ bé so với số lượng giảng viên những trường ấy. Như thế làm sao có thể đào tạo được nhiều nghiên cứu sinh tốt?"

Tôi thử làm một thống kê nhanh về số bài báo liên quan đến ngành "Business and Economics" trên các tập san trong thư mục ISI trong thời gian 2010-2014 thì kết quả như sau:

Việt Nam: 178 bài
Thái Lan: 483 bài
Mã Lai: 1076 bài
 
Phi Luật Tân: 352 bài
Singapore: 2188 bài.

Đây là vấn đề chưa bao giờ cũ ở VN. Trước đây, Gs Trần Văn Thọ cũng đã vài lần chỉ ra rằng nhiều luận án tiến sĩ kinh tế ở VN không thể xem là “tiến sĩ”, bởi vì phẩm chất khoa học còn kém quá. Đề tài nghiên cứu chẳng có cái mới. Tính khoa học cũng không cao, vì đề tài nghiên cứu chỉ xoay quanh những “giải pháp” mang tính đối phó và cấp địa phương. Hôm nọ, trong một hội thảo ở Sài Gòn, tôi có nghe một báo cáo của một anh phụ trách đào tạo thuộc một đại học lớn ngoài Hà Nội mà trong đó anh cho biết có gần 70% nghiên cứu sinh tiến sĩ là quan chức, kể cả quan chức cấp tỉnh! Anh ấy còn kể nhiều chuyện cười ra nước mắt. Chẳng hạn như anh ấy kể rằng một hôm anh lên trình bày với hiệu trưởng là phải chấn chỉnh lại chương trình đào tạo tiến sĩ, hạn chế mấy ông quan, anh hiệu trưởng nhìn anh rồi nói: P à, anh muốn trường mình bị đóng cửa hay sao chứ? Mình cần họ lắm đó, vì trong tương lai họ sẽ lên Bộ và mình làm ăn dễ hơn. Anh P lắc đầu ngao ngán và nhận ra rằng con đường cải cách còn rất gian nan.

Tôi nghĩ ngành khác, ví dụ như ngành y, thì cũng như Gs LVCường và Gs Trần Văn Thọ nói thôi. Trước đây, tôi cũng có chỉ ra rằng nhiều luận án tiến sĩ y khoa ở VN không thể xem là tiến sĩ, bởi vì đề tài nghiên cứu thiếu cái mới, phương pháp hoặc là sai hoặc là chưa đạt chuẩn khoa học, qui mô thì quá nhỏ và đơn giản, nói chung là phẩm chất khoa học kém quá. Cho dù người ta có tạo ra những qui trình và thủ tục rườm rà (làm như rất chặt chẽ) thì vẫn không thể nào khoả lấp được cái khoảng trống về khoa học.

Ngành y còn có một vấn đề khác nữa: đó là khi họ đã lên bậc thầy cô thì họ bận lo phòng mạch, làm kinh tế, giảng dạy chỉ là phụ, và nghiên cứu thì chỉ là chuyện bên lề. Do đó, nghiên cứu y khoa của VN, cũng như ngành kinh tế, còn rất yếu. Những nghiên cứu công bố trên các tập san trong nước nhìn chung có phẩm chất khoa học rất thấp, đến nỗi chính thầy cô cũng không tin và không dùng những nghiên cứu đó dù chính họ làm hướng dẫn. Phải nói là một tình trạng rất trớ trêu!

Cũng may phước là trong ngành y đang hình thành một số nhóm nhỏ đang có nỗ lực xoay chuyển tình thế. Những nhóm này làm nghiên cứu thật, và có công bố quốc tế đàng hoàng. Nhưng khổ nỗi là họ ít khi nào được hỗ trợ thích đáng từ các cơ quan tài trợ Nhà nước. Họ cũng chẳng được ai ghi nhận, vì các trường/viện họ chạy theo danh xưng "Chiến sĩ thi đua" chứ chẳng ai quan tâm đến nghiên cứu khoa học thứ thiệt và công bố quốc tế. Do đó, tôi phải mở ngoặc ở đây để khen -- phải nói là khen – Hội HOSREM đã có sáng kiến trao giải thưởng cho các nhà nghiên cứu nghiêm chỉnh. Ước gì các hiệp hội lớn có sáng kiến như Hosrem để góp phần vực dậy nền khoa học. Sắp tới, ĐH Tôn Đức Thắng cũng sẽ lập giải thưởng danh giá cho nhà khoa học tài ba theo tiêu chuẩn quốc tế.

Quay lại câu chuyện ngành kinh tế, còn nghiên cứu sinh VN ngành kinh tế ra nước ngoài học thì sao? Gs LVCường tỏ ra thất vọng, và cho biết có nhiều người sang Pháp học về tay trắng (vì học không nổi), hoặc phải học Master thôi. Tại sao? Tại vì, theo Gs Cường: ""rất nhiều người không có đầy đủ kiến thức kinh tế để làm luận án, kiến thức toán yếu, tiếng Anh lẫn tiếng Pháp cũng kém." Tôi nghĩ "toán" ở đây chính là "thống kê học". Nói tóm lại là vấn đề kiến thức, phương pháp nghiên cứu, và kĩ năng mềm. Đó là những kĩ năng mà sinh viên VN nói chung rất yếu so với đồng môn nước ngoài.

Tôi và vài bạn đang cố gắng giúp để nâng cao các kĩ năng đó trong nhiều năm qua. Sẵn dịp, tôi phải nhắc lại là khoa học về phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội (kể cả kinh tế) do Trường ĐH Tôn Đức Thắng tổ chức sắp hết hạn đăng kí. Hôm qua tôi hỏi về con số đăng kí thì biết là người ta gọi điện hỏi thăm thì nhiều, còn đăng kí thì nói … chờ đến gần ngày. Xin nói thêm là đến ngày 20/5 thì khoá sổ, và cũng như lần trước, ban tổ chức sẽ không xét thêm, không nhân nhượng, không "tại, bị, do, bởi, vì" (mấy lí do này nghe quen quá), không đăng kí thêm. Nói như thế không có nghĩa là lớp học thiếu người đâu (đừng nghĩ như thế mà lầm to), mà là tôi sẽ không làm lớp thứ hai trong nhiều năm. Trước đây, Viện Khoa học Xã hội và ĐHQGHN có đề nghị mở lớp học như thế này, nhưng cho đến nay vẫn chưa có động đậy gì, nên tôi nghĩ chắc họ không cần. Dạo này, có tuổi rồi, giảng một lượt vài chục bài là thấm mệt (hồi xưa thì không sao), nên tôi phải hạn chế lớp học và tận dụng công sức để lo cho nhóm nghiên cứu ở trong nước. Cũng không có thu hình như nhiều bạn đề nghị vì Trường không có người làm. Chi tiết lớp học ở đây:


====


Read more ...