Pages

Gian dối trong giới khoa học Tàu

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Hôm thứ Sáu vừa qua, nhà xuất bản BMC (Biomedcentral) thông báo cho các thành viên ban biên tập rằng BMC quyết định rút xuống 43 bài báo khoa học, đại đa số là từ … Tàu. Sự việc lên báo WP (1)! Lí do rút xuống là vì sau khi kiểm tra, họ phát hiện có dấu hiện lạm dụng qui trình bình duyệt (peer review). Cái "chiêu" mà các tác giả Tàu sử dụng là đề cử những chuyên gia "ma" để bình duyệt bài báo, mà những chuyên gia ma này có vẻ xuất phát từ các công ti chuyên viết mướn. BMC cho biết họ đã đóng cửa phần đề cử chuyên gia bình duyệt khi nộp bài báo.


Chiêu này không mới. Năm ngoái, tập đoàn xuất bản Naturerút xuống 110 bài báo do cùng lí do lạm dụng qui trình bình duyệt như tôi vừa nêu trên. Nature không phải chỉ là nạn nhân duy nhất, nhà xuất bản lừng danh Elsevier cũng là nạn nhân, cũng rút lại 16 bài báo vì chiêu lừa đảo đó. Nay đến phiên BMC (đã bị tập đoàn Springer thu tóm) trở thành nạn nhân. Gần như tất cả những bài báo bị rút xuống là từ Tàu. Có thể nói rằng các tác giả Tàu đã làm được một cú lừa đảo các nhà xuất bản danh giá một cách ngoạn mục.

Ngay cả cá nhân tôi đã từng và đang là nạn nhân của Tàu. Số là tôi phụ trách biên tập một bài báo từ Tàu, đã chấp nhận cho công bố. Sau khi công bố được 1 tuần thì tôi nhận email của một giáo sư nổi tiếng bên Hồng Kông báo cho biết là bài báo này cũng mới được công bố vài ngày trên một tập san phẫu thuật ở Mĩ. Vị giáo sư này không dính dáng gì đến bài báo. Cái điều thú vị là hai bài báo có hai nhóm tác giả hoàn toàn khác nhau, nơi làm việc cũng khác nhau, nhưng số liệu thì giống nhau như đúc! Ngoài ra, 95% những câu văn và thuật ngữ cũng giống nhau. Rõ ràng là hai nhóm tác giả sử dụng 1 nguồn dữ liệu, và có thể do một công ti nào đó viết mướn cho họ. Thế là tập san mở cuộc điều tra. Cho đến nay vẫn chưa có kết quả chính thức, nhưng tôi nghĩ cả hai tập san sẽ rút bài báo này xuống khi có kết luận từ điều tra.

Tàu lừa đảo người ta rất tốt, nhưng điều đó cũng làm cho người ta đặt câu hỏi về đạo đức khoa học của Tàu. Nhưng cũng phải nói cho công bằng, không phải đa số giới khoa học Tàu lừa đảo; chỉ có "một số không ít" mới làm những trò thất đức đó. Cái số không ít này đủ để làm hoen ố giới khoa học Tàu. Điều này rất đáng tiếc, vì giới khoa học Tàu có thể nói là rất giỏi, những người từng đi du học về Tàu và điều hành nhóm nghiên cứu chẳng hề thua kém đồng nghiệp phương Tây. Có những công trình họ làm rất nhanh và rất lớn mà phương Tây khó làm được. Nhưng chỉ cần vài còn cừu đen cũng đủ làm cho giới khoa học quốc tế nghi ngờ những bài báo từ Tàu.

Nhưng sự việc không phải có nghĩa là khoa học đang bị hư hỏng như nhiều người muốn hiểu; nó chỉ nói lên rằng hệ thống xuất bản khoa học từ thế kỉ 19 không còn thích hợp cho thế kỉ 21 nữa. Ngày xưa, cho mãi đến ngày tôi mới vào học PhD, thì việc xuất bản khoa học vẫn theo mô hình cũ: tác giả gửi bản thảo bài báo cho tập san bằng bưu điện bảo đảm (thời đó chưa có email); sau 3-5 tháng, tập san gửi báo cáo của các chuyên gia bình duyệt; nếu tập san cho cơ hội thì tác giả trả lời; và tập san sẽ quyết định sau đó. Qui trình như thế tốn từ 9 tháng đến 1 năm, và trong vài trường hợp kéo dài đến 2 năm. Đến khi có internet thì việc đệ trình / nộp bản thảo cho đến bình duyệt và quyết định, tất cả đều làm trực tuyến, nên thời gian rất nhanh, có khi chỉ 3 tháng là xong. Vì nộp trực tuyến và nhiều tác giả từ nước trong thế giới thứ 3 dùng địa chỉ email công cộng (như yahoo, hotmail, gmail, v.v.) cho nên tập san khó kiểm tra được họ là người thật hay ảo. Một số nhà khoa học Tàu lợi dụng kẽ hở này và gây ra tình trạng nhiễu nhương trong xuất bản khoa học như hiện nay. Họ đã phá vở mối quan hệ thiêng liêng trong khoa học: đó là sự tin tưởng. Họ làm cho các tập san nghi ngờ tác giả. Cái tội của họ rất lớn. Nhưng đồng thời sự việc cho thấy qui trình xuất bản phải thay đổi để thích ứng với thế kỉ 21. 

Điều ám ảnh nhất với tôi là VN thường hay bắt chước Tàu. Từ chính trị đến văn hoá, tư tưởng, thậm chí quân phục, và cả tổ chức khoa học, đều bắt chước Tàu. Thầy mà gian dối như thế thì tôi nghĩ khả năng rất cao là trò cũng gian dối. Chỉ có điều là sự gian dối chưa xuất hiện mà thôi, hay xuất hiện ở tần số chưa đủ dầy để gây chú ý. Tôi nghĩ các cơ quan khoa học VN ngay từ bây giờ phải có sẵn qui trình xử lí khi sự việc gian dối xảy ra. Không nên chờ đến khi sự việc xảy ra làm cho lúng túng không biết giải quyết thế nào.

===


Read more ...

Gặp gỡ cuối tuần: Truy tìm gen loãng xương thất lạc

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Xin hân hạnh giới thiệu một cuộc trò chuyện với phóng viên báo Lao Động về phát hiện gen liên quan đến loãng xương hồi tuần qua. Có một thông tin tôi muốn nhấn mạnh là các cơ quan tài trợ cho nghiên cứu khoa học nên nghĩ xa và lớn hơn, chọn những dự án có ý nghĩa khoa học nhưng phải khả thi để đầu tư, chứ không nên chi tiền cho những dự án tủn mủn rồi cũng sẽ chẳng dẫn đến đâu.

Hiện nay, có nhiều người (nhất là cánh nhà báo) nhao nhao đòi những ai nhận tài trợ của Nhà nước và cả cơ quan tài phải công bố kết quả nghiên cứu. Tôi nghĩ đòi hỏi này hoàn toàn chính đáng. Nhưng đối với người có tự trọng và làm khoa học nghiêm chỉnh thì đòi hỏi công bố là thừa, bởi vì họ biết rất rõ đó là nghĩa vụ của họ.


====


SP7, MBL2, và ZBTB40 - ba gen đều được xem là rất mới trong thế giới loãng xương, có liên quan đến mật độ xương của người Việt vừa được Nhóm nghiên cứu cơ xương - ĐH Tôn Đức Thắng phát hiện. Công trình nghiên cứu này đã được công bố trên Bone - tạp chí hàng đầu thế giới về loãng xương. Chúng tôi có cuộc phỏng vấn GS. Nguyễn Văn Tuấn, Trưởng nhóm Nhóm nghiên cứu xương và cơ - ĐH Tôn Đức Thắng.


Phóng viên: Chúng tôi được biết, loãng xương là một vấn đề y tế lớn ở Việt Nam hiện nay: Gần 1/3 phụ nữ mãn kinh và 1/10 nam giới trên 60 tuổi bị loãng xương. Mỗi năm có hơn 10.000 người bị gãy cổ xương đùi, trong số này có 20% tử vong sau 12 tháng bị gãy xương. Xin GS cho biết phát hiện về gen loãng xương ở người Việt?

- Loãng xương và gãy xương là một trong những vấn đề y tế lớn ở VN, vì nhiều người mắc bệnh và vì bệnh nhân bị gãy xương có nguy cơ tử vong cao. Mối liên hệ giữa gãy xương và tử vong là rất nghiêm trọng nhưng rất ít người nhận thức được. Đã từ lâu, qua các nghiên cứu ở người da trắng chúng tôi biết rằng, loãng xương chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố di truyền, nhưng tìm gen liên quan trong hàng vạn gen là một việc rất khó khăn, có thể ví như việc "mò kim đáy biển" vậy. Với sự phát triển của công nghệ di truyền, ngày nay chúng ta có thể phân tích hàng triệu biến thể gen, và chúng tôi đã có kinh nghiệm phân tích như thế ở nước ngoài. Nhưng ở Việt Nam chưa có cơ quan nào tài trợ cho chúng tôi làm nghiên cứu lớn về gen, nên chúng tôi phải tìm cách làm… rẻ tiền hơn. Chúng tôi dựa vào kết quả của chúng tôi ở nước ngoài về những gen được khám phá có liên quan đến loãng xương ở người da trắng, sau đó chúng tôi tập trung phân tích những gen có triển vọng nhất ở người Việt. Qua phân tích này, chúng tôi phát hiện 3 gen có liên quan đến mật độ xương ở người Việt. Cần nói thêm rằng, mật độ xương là một thước đo về sức mạnh của xương, và trong thực tế lâm sàng chúng tôi dùng mật độ xương để chẩn đoán loãng xương.

Phóng viên: Đây là nghiên cứu tìm gen loãng xương đầu tiên ở Việt Nam. Vậy các chuyên gia ở các nước khác ở Châu Á có tìm gen như nhóm của giáo sư không?

- Ở Đông Nam Á thì có lẽ chúng tôi là nhóm đầu tiên nghiên cứu về gen loãng xương, nhưng ở các nước phát triển hơn như Hàn Quốc và Trung Quốc thì họ đã được Nhà nước tài trợ khá dồi dào, nên họ đã từng thực hiện các công trình nghiên cứu quy mô lớn về di truyền trong loãng xương trước chúng tôi. Đáng lý ra chúng tôi có thể thực hiện những nghiên cứu quy mô như các đồng nghiệp Hàn Quốc đã làm vì chính họ đã từng nhờ chúng tôi tư vấn, nhưng rất tiếc là ở VN chưa có cơ quan nào có tầm nhìn để tài trợ cho các công trình nghiên cứu lớn. Điều thú vị là 3 gen chúng tôi phát hiện thì gần như cùng một lúc các đồng nghiệp Hàn Quốc cũng phát hiện 3 gen này có liên quan đến mật độ xương ở người Hàn!

Phóng viên: Những gen này có đặc điểm gì thưa ông?

- Ba gen mà chúng tôi phát hiện là SP7, MBL2, và ZBTB40. Cả ba gen này đều được xem là rất mới trong thế giới loãng xương, nên chúng tôi chưa hiểu biết nhiều về chúng. Gen SP7 nằm ở nhiễm sắc thể 12, và có cỡ 19000 bases. Trước đây gen SP7 đã được phát hiện có liên quan đến hội chứng "xương thuỷ tinh" (osteogenesis imperfecta). Gen MBL2 cũng là gen mới trong loãng xương, nằm ở nhiễm sắc thể 10, nhỏ hơn gen SP7 vì kích thước chỉ 6300 bases. Trước đây gen này chưa từng được phát hiện có liên quan đến xương, nhưng có liên quan đến bệnh truyền nhiễm. Gen thứ ba là ZBTB40, nằm ở nhiễm sắc thể 1 và khá lớn (79300 bases), trước đây đã được phát hiện có liên quan đến mật độ xương ở người Âu Mỹ nhưng cho đến nay chúng tôi vẫn chưa biết cơ chế sinh học của gen này. Nói chung, đây là những gen rất mới trong thế giới loãng xương, nên chúng tôi cần thêm thời gian để có kinh nghiệm và kiến thức với các hướng ảnh hưởng của chúng.

Phóng viên: Được biết, hiện, công nghệ gen đã cho phép phân tích toàn bộ hệ gen. Tại sao nhóm nghiên cứu của GS chỉ tập trung vào 30 gen mà không phân tích tất cả 20 ngàn gen?

- Đúng là hiện nay công nghệ di truyền đã giúp chúng ta có thể phân tích hàng vạn gen cùng một lúc. Ngoài ra, công nghệ giải trình tự gen (còn gọi là whole genome sequencing hay WGS) mà lab của chúng tôi ở Viện Garvan (Úc) có hẳn một máy để phân tích có thể giải mã hàng triệu biến thể cùng một lúc. Nhưng hàng rào cản trở duy nhất đối với chúng tôi hiện nay là tài trợ; chúng tôi chưa có tài trợ để làm phân tích WGS. Chúng tôi không hề thiếu ý tưởng, chẳng thiếu kiến thức về loãng xương, cũng không thiếu chuyên môn phân tích dữ liệu, chúng tôi chỉ thiếu tiền. Để phân tích toàn bộ hệ gen hiện nay, mỗi bệnh nhân tốn khoảng 1.500 đô la Úc, nếu chúng tôi thực hiện trên 1.000 người thì chi phí này đã lên đến 1,5 triệu đô la. Do đó, chúng tôi phải suy nghĩ đến một mô hình nghiên cứu sáng tạo hơn nhưng tiết kiệm tiền rất nhiều. Tuy nhiên, dù với mô hình này, cái giá tối thiểu để phân tích gen cũng phải 300 đến 500 ngàn đô la. Ở nước ngoài như Hàn Quốc, Trung Quốc chẳng hạn thì đó không phải là số tiền lớn, nhưng ở VN, đó có thể là số tiền lớn, và chưa có cơ quan nào ở VN tài trợ để làm nghiên cứu quy mô như thế!

Phóng viên: Xin ông cho biết ý nghĩa của việc tìm gen loãng xương?

- Cách đây gần 20 năm tôi có viết một bài xã luận trên một tập san y khoa ở Mỹ, trong đó tôi viết rằng, nghiên cứu về gen có 3 mục tiêu: Tiên lượng bệnh tật, hiểu về cơ chế bệnh tật, và qua đó phát triển thuốc mới. Trong chuyên ngành loãng xương của chúng tôi, trong thời gian qua chúng ta cũng đã có chút thành công trong việc dùng gen để tiên lượng gãy xương tốt hơn. Tôi cũng biết các chuyên ngành khác như tim mạch, tiểu đường, ung thư... cũng có "chiến dịch" tìm gen và họ cũng đạt được thành công trong việc tiên lượng bệnh, nhất là ngành ung thư học.

Gen còn giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về bệnh và giúp chúng ta khám phá những điều bất ngờ. Chẳng hạn như khám phá gen LRP5 (qua một ca tai nạn giao thông) giúp cho giới khoa học biết hơn về cơ chế tác động của các tế bào tạo xương và huỷ xương như thế nào, và qua đó, một thuốc mới được phát triển để kích hoạt hoặc điều tiết các tế bào đó.

Một mục tiêu khác rất quan trọng trong việc tìm gen còn có thể giúp các bác sĩ xác định thuốc thích hợp cho mỗi cá nhân. Hiện nay, chúng ta biết rằng, hầu như bất cứ thuốc nào cũng chỉ có hiệu quả cho một số bệnh nhân, còn nhiều bệnh nhân khác thì không có hiệu quả, thậm chí còn bị biến chứng. Phát hiện gen có thể giúp nhận dạng bệnh nhân nào đáp ứng thuốc và bệnh nhân nào không nên dùng thuốc.

Viễn cảnh tương lai là mỗi cá nhân, dĩ nhiên kể cả anh và tôi, sẽ có một thẻ căn cước sinh học, và trong thẻ đó có thông tin về gen của chúng ta. Khi đến phòng mạch bác sĩ hay bệnh viện, chỉ cần cà cái thẻ căn cước sinh học vào máy tính, và bác sĩ có thể tiên lượng nguy cơ mắc bệnh, xác định thuốc điều trị thích hợp, và đưa ra khuyến cáo phòng ngừa bệnh. Đó là một tương lai, nó chưa đến, những tôi muốn tin rằng nó sẽ đến.

Phóng viên: Ông nói các gen này chỉ giải thích 3% mật độ xương, vậy phần còn lại là do yếu tố nào khác?

- Đây là một câu hỏi thời sự. Không chỉ trong ngành loãng xương, ngay cả ngành béo phì, nhiều gen chỉ giải thích rất ít những khác biệt giữa các cá nhân về béo phì. Trong giới di truyền học, chúng tôi gọi đây là hiện tượng "missing heritability", tạm dịch là "những gen thất lạc". Như chúng tôi có đề cập trong bài viết, 3 gen chúng tôi phát hiện chỉ giải thích khoảng 3% khác biệt về mật độ xương giữa các cá nhân, tức mức độ ảnh hưởng khá "ít ỏi", và chúng tôi cũng có vấn đề gen thất lạc.

Nhưng tôi chưa nói rằng, những gen mà chúng tôi phát hiện là những gen phổ biến, tức xuất hiện trong quần thể trên 5%. Còn rất nhiều gen không phổ biến như thế, mà tần số xuất hiện có thể chỉ 1%, thậm chí dưới 1%. Tôi nghĩ rằng, những gen này là những gen có ảnh hưởng lớn, và chúng có thể giải thích nhiều phần trăm về khác biệt giữa các cá nhân trong quần thể.

Phóng viên: Vậy ông và cộng sự có dự tính gì trong tương lai để tìm các gen còn lại?
- Nhóm chúng tôi đang có một dự án tìm những "gen thất lạc" đó. Có thể ví von rằng những gì hiếm thì thường có tác động lớn, và những gì hiếm thì thường… khó tìm. Tương tự, những gen hiếm trong quần thể cũng rất khó phát hiện. Nhưng may mắn là, với công nghệ mới, chúng tôi có thể tìm những gen đó không khó. Nhưng thay vì làm theo cách mà nhiều nhóm trên thế giới đang làm, chúng tôi sẽ sử dụng kiến thức chuyên ngành xương của mình để tìm một cách làm khác, ít tốn kém hơn, khó hơn, nhưng hiệu quả cao hơn.

Phóng viên: Xin cảm ơn ông!


Read more ...

Khoe nghiên cứu mới: 60% người Việt bị thoái hoá cột sống

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

Thỉnh thoảng có dịp "khoe" nghiên cứu mới cùng các bạn đồng nghiệp xa gần. Đây là một nghiên cứu liên quan đến một bệnh rất phổ biến ở Việt Nam và mới được công bố trên tập san Calcifield Tissue International (CTI). Trong nghiên cứu này, chúng tôi phải làm rất công phu, phải đo 3 chiều từng đốt sống một, của 20 đốt sống, trên 600 người. Nghe là đã phát ngán, nhưng phải làm từ từ, và chính vì thế là tốn nhiều thì giờ. Kết quả cho thấy có đến 60% người bị thoái hoá cột sống mà họ không biết. Suy đoán cho cả nước thì có 16 triệu người, một con số rất lớn! Một lần nữa, đây là nghiên cứu đầu tiên mà chúng tôi làm ở Việt Nam và cho người Việt Nam. Rất vui vì đã đóng góp một phần cho y học bên nhà về một mảng nghiên cứu mà không ai làm, hay có làm mà chưa được công bố trước đây.


Tập san này (CTI) tuy không danh giá bằng Bone mà chúng tôi công bố trước đây nhưng là tập san có tiếng và được nhiều người trong chuyên ngành đọc và công nhận. Tập san với ban biên tập toàn những "người quen" trong ngành.

====

Thông cáo báo chí

Các nhà khoa học của Trường đại học Tôn Đức Thắng vừa công bố một công trình nghiên cứu mà theo đó họ phát hiện rằng cứ 10 người Việt ở TPHCM trên 40 tuổi thì 6 người bị thoái hoá xương cột sống. Phát hiện này vừa mới được công bố trên tạp chí y khoa quốc tế Calcifield Tissue International.

Thoái hóa cột sống thường được xem là một trong những bệnh lý xương khớp thường hay thấy ở bệnh nhân cao tuổi. Thoái hoá khớp làm cho bệnh nhân khó khăn trong vận động và đi lại hàng ngày, làm suy giảm chất lượng cuộc sống, và chi phí điều trị rất tốn kém. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa từng có nghiên cứu để đánh giá quy mô của bệnh.

Các nhà khoa học thuộc Nhóm nghiên cứu cơ xương của Trường đại học Tôn Đức Thắng đã thực hiện một công trình nghiên cứu công phu về bệnh thoái hoá khớp cột sống. Họ tiến hành đo kích thước của 20 đốt sống trên hơn 600 nam và nữ trên 40 tuổi. Họ dùng một phương pháp chẩn đoán phổ biến để đánh giá thoái hoá khớp cho từng đốt sống. Kết quả cho thấy 60% người bị thoái hoá cột sống. Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ (62%) cao hơn nam (55%). 

Bác sĩ Hồ Phạm Thục Lan, chủ trì công trình nghiên cứu và tác giả chính của bài báo, cho biết ở các nước Âu Mỹ những người trên 60 tuổi, cứ 10 người thì có 8 người bị thoái hoá cột sống. Bác sĩ Lan cho biết tỷ lệ này rất tương đương với những báo cáo trước đây ở người da trắng. Điều đáng nói là tất cả những người này không hề biết họ bị thoái hoá cột sống vì không có biểu hiện hay triệu chứng cụ thể.

Đau lưng được xem là một biểu hiện của thoái hoá cột sống. Nghiên cứu này cho thấy 44% người bị đau lưng và gần 30% bị đau cổ. Nhưng Bác sĩ Thục Lan nói rằng hai triệu chứng này không phải là tín hiệu tốt để nhận dạng bệnh nhân thoái hoá cột sống. Trong thực tế, cao tuổi và quá cân là hai yếu tố làm tăng nguy cơ thoái hoá cột sống.

Bác sĩ Thục Lan cho biết trong tương lai nhóm nghiên cứu sẽ tập trung khảo cứu sự ảnh hưởng của gen đến bệnh thoái hoá khớp, và qua đó hy vọng sẽ xây dựng mô hình tiên lượng bệnh tốt hơn.

Việt Nam hiện có khoảng 92 triệu dân, với khoảng 28% nam và 33% nữ tuổi trên 40. Từ đó, các nhà nghiên cứu ước tính rằng hiện nay có khoảng 16 triệu người bị thoái hoá cột sống. Trong xu hướng lão hoá nhanh, kết quả nghiên cứu này cho thấy thoái hoá khớp, đặc biệt là thoái hoá cột sống, sẽ trở thành một gánh nặng y tế của xã hội.

Nhóm nghiên cứu cơ xương của Trường đại học Tôn Đức Thắng đã có những công trình nghiên cứu được công bố trên những tạp chí có uy tín rất cao trong chuyên ngành như Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism, BONE, PLOS ONE. Nhóm này là một trong những nhóm nghiên cứu mạnh và rất thành công của Trường đại học Tôn Đức Thắng.



Read more ...

Bầu cử kiểu … Úc

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015
Tôi thích xem các tờ rơi và quảng cáo trong các cuộc bầu cử ở Úc. Mỗi lần bầu cử là mỗi lần các đảng vận động tranh cử với những sáng tác rất hay. Tôi phải nói là “sáng tác”, bởi vì đó là những sản phẩm văn hoá đòi hỏi suy nghĩ của người tạo ra chúng. Họ dùng những sáng tác đó để tấn công đối thủ chính trị, và để thuyết phục cử tri rằng đảng của họ là xứng đáng cầm quyền. Nhưng mỗi quảng cáo chỉ có vài giây, và cái thách thức là làm sao nói cho được nội dung và thuyết phục cử tri trong vài giây đó.


Chẳng hạn như năm nay cuộc bầu cử bang New South Wales sắp diễn ra, với 2 đối thủ chính là đảng Lao Động và đảng Liberal. Đảng Liberal đang cầm quyền. Lãnh tụ của đảng Lao Động là ông Luke Foley. Ông này chưa từng làm bộ trưởng hay chức vụ gì quan trọng cả. Để tấn công điểm yếu này, phía đảng Liberal tung ra cái video clip 15 giây trên các đài truyền hình sau đây:


Nếu các bạn xem cái video clip thì sẽ thấy chữ L được lấy làm điểm nhấn. Mẫu tự L là một phần của tên ông Foley. Nhưng L được viết trên nền màu vàng, còn có một ý nghĩa khác. Ở bang New South Wales, người đang học lái xe được cấp bảng L để treo trước và sau xe để cho người khác thấy người đang lái xe là đang tập lái. Cái biển L cũng là một cảnh báo cho người lái xe là phải cẩn thận với người đang tập lái. Do đó, nhấn mạnh chữ L có nghĩa là nhấn mạnh cái ý rằng ông Foley đang tập làm lãnh đạo! Trong khi chữ L được nhá nhá thì giọng đọc nữ nói rằng ông Foley chỉ là kẻ cơ hội chính trị, chưa bao giờ có kinh nghiệm lãnh đạo, vậy mà ông ấy đòi làm thủ hiến bang! Chữ “state” được kéo dài ra như là một cách mỉa mai và nghi ngờ. Mẫu quảng cáo được kết thúc bằng câu “Coi chừng hắn” (cũng giống như coi chừng mấy người mới có bằng lái xe hạng L).

Tôi thấy quảng cáo này rất hay, vì người sáng tác ra nó rõ ràng là biết sử dụng thông tin, cộng với yếu tố hình ảnh và âm thanh một cách rất hữu hiệu. Xem xong là người ta biết ngay Foley là kẻ không có kinh nghiệm và … nguy hiểm (mới có chữ “coi chừng hắn”). Dĩ nhiên, đó chỉ là một cách mua vui mang tính chính trị thôi, chứ ông Foley thì chắc thừa khả năng điều hành một bang lớn như New South Wales.  

Sáng nay đến viện, tôi chợt chú ý đến một cái billboard dán trên cột điện có hình của một người trông thấy quen quen. Hoá ra đó là hình của ông Tony Abbott, đương kim thủ tướng. Phía dưới hình là chữ HOPLESS thật lớn. Dĩ nhiên, trong tiếng Anh, “hopeless” có nghĩa là “vô vọng” (hết hi vọng). Nghĩ lại đây là một sự chơi chữ rất hay. Tác giả cái billboard này dùng ý tưởng và mô-típ của cái billboard bên Mĩ với hình ông Obama và phía dưới là chữ HOPE (hi vọng). Abbott là vô vọng, còn Obama là hi vọng. Hay.




Mấy tuần nay, nhiều người Úc rất giận Chính phủ của ông Abbott về một vài vấn đề địa phương. Nhưng ông ấy đã được bầu thủ tướng, nên đâu làm gì được để truất phế ông ấy. Người dân chỉ còn cái quyền duy nhất và thiêng liêng là freedom of expression -- tự do diễn ngôn. Họ đem hình ông Abbott ra chế diễu và qua đó tạo ra tiếng nói. Còn sinh viên thì phát tờ rơi [có nghĩa Việt là] “Đá Abbott ra khỏi Chính phủ”. Tất cả đều được làm một cách công khai.

Nhìn cái tự do của người Úc, tôi chợt nghĩ đến Việt Nam. Không nói ra ai cũng biết chẳng ai ở VN có cái quyền “freedom of expression”. Không thích Chính phủ hay người nào đó trong Chính phủ thì người dân chỉ im lặng, chứ không dám nói công khai. Nếu ai dám nói ra thì lập tức sẽ bị làm phiền, thậm chí cho đi tù, và khi ra tù thì sự nghiệp coi như tiêu tan, con đường tương lai gần như bị triệt tiêu. Còn người Úc thì họ có quyền nói thoải mái. Họ lên tivi, họ viết báo, viết blog, họ sáng tác nghệ thuật để nói lên tiếng nói phản đối của họ. Chẳng ai làm khó gì họ. Ông Tony Abbott thừa biết người ta đang chửi và đang ghét ông, nhưng ông vẫn hành xử một cách quân tử và làm theo cái sứ mệnh mà ông ấy nghĩ là người dân bầu cho ông ấy. Ông ấy chẳng ra bắt bớ ai hay làm khó bất cứ ai phản đối ông ấy. Thật ra, ông Abbott không có quyền đó.

Tôi nghĩ cách hành xử và thái độ của chính quyền Úc thể hiện một sự tự tin của một Nhà nước trưởng thành. Một Nhà nước trưởng thành chấp nhận các quan điểm dị biệt. Chỉ biết hi vọng Nhà nước Việt Nam cũng đối xử với những người bất đồng chính kiến như Nhà nước Úc, và cho người dân cái quyền thiêng liêng “freedom of expression” mà ông cụ Hồ từng đấu tranh.


Read more ...

Lý Quang Diệu và Phạm Văn Đồng

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015
Thế là ông Lý Quang Diệu đã về cõi vĩnh hằng ở tuổi 91. Đã có rất nhiều bài báo viết về cuộc đời và sự nghiệp to lớn của ông, những gì chúng ta viết có nguy cơ cao bị rơi vào sự thừa thải. Nhưng viết về ông dựa trên cái nhìn của VN thì chắc không thừa. Ông Lý Quang Diệu làm thủ tướng Singapore khoảng 31 năm. Ông Phạm Văn Đồng cũng làm thủ tướng [một phần và sau này toàn phần VN] được 32 năm. Nhưng hai người để lại những di sản rất khác nhau.


Ông Lý đúng là một kiến quốc sư thật sự. Ông “hoán chuyển” một làng chài chỉ độ 100 dân nghèo khó và không có tài nguyên thành một quốc đảo giàu có, một trung tâm thương mại và trung chuyển quốc tế. Ông cầm lái “con thuyền Singapore” đi từ nghèo đói đến thịnh vượng, sang chế độ dân chủ [dù chỉ nửa vời], đến toàn cầu hoá. Ông không bao giờ tự xưng là "cha gia dân tộc", nhưng người dân Singapore xem ông như là một cha đẻ của Singapore hiện đại. Ông ra đi và để lại một Singapore đầy tự tin, xán lạn. Trên trường quốc tế, ông được hầu như tất cả các lãnh tụ quốc gia xem như là một “statesman” – chính khách. Người ta ca ngợi ông là người có viễn kiến sáng suốt, về tính quyết đoán, về cách nói trực tiếp và trong sáng, về trí thông minh, và tính dí dỏm của một người có học. Ông còn để lại những câu phát ngôn trứ danh, những phát ngôn mà thế giới sẽ còn nghiền ngẫm trong tương lai.

Ông Phạm Văn Đồng sau hơn 30 năm làm thủ tướng và khi ra đi chẳng để lại một di sản gì đáng để xưng tụng. Suốt 30 năm làm thủ tướng hình như ông chẳng có dấu ấn gì đáng nói. Nước VN do ông lãnh đạo từ nghèo đói vẫn hoàn nghèo đói. Ông để lại cái văn bản ngoại giao đầy tai tiếng và có thể nói là sẽ làm nhơ danh ông rất rất lâu. Ông chỉ được tiếng là người trong sạch và giản dị. Nhưng ông chẳng có những phát ngôn gì để có thể xem là "wisdom".

Về qui mô, nói cho cùng, tôi nghĩ ông Lý là người chỉ tương đương với vai trò của một thị trưởng mà thôi. Nên nhớ rằng trong quá khứ, ông Lý Quang Diệu từng bị báo chí Nhà nước Việt Nam chửi như tát nước. Ông được cho đội đủ thứ “nón”: nào là tay sai đế quốc, là chống cộng, là chống nhân dân Việt Nam. Thế nhưng đùng một cái, Việt Nam “mặn nồng” với ông Lý Quang Diệu. Ông Võ Văn Kiệt từng mời ông Diệu làm cố vấn và cộng tác. Nhưng ông Lý từ chối, và nói rằng nếu không có Mĩ gật đầu thì VN vô phương phát triển. Ông Lý nói rằng Mĩ là chìa khoá, Mĩ là động cơ để phát triển. Ngay cả Tàu cũng phải ôm lấy Mĩ mà phát triển, thì VN không nên xem thường Mĩ.  

Mà, ông cho ý kiến rất thành thật. Có thể nói ông Lý là một "fan" của Việt Nam, nhưng không phải là fan của giới lãnh đạo VN. Ông Lý khen người Việt Nam thông minh, học hành giỏi, và khi ra nước ngoài thường thành công. Ông tiếc nuối rằng đáng lẽ VN phải là số 1 của Đông Nam Á, hay thậm chí hàng đầu của Á châu, vì VN có đủ điều kiện từ địa dư, tài nguyên đến con người để trở thành một cường quốc.
Thế nhưng ông tiếc cho VN, và ông chê lãnh đạo VN. Khi được hỏi ý kiến, ông khuyên là cải cách kinh tế cần phải đi đôi với cải cách chính trị, nhưng giới lãnh đạo VN không chịu nghe. Ông nói rằng giới lãnh đạo VN không thể khá lên được vì họ bị "giam tù" bởi vòng kim cô ý thức hệ cộng sản. Theo ông, giới lãnh đạo VN không có khả năng đổi mới bản thân họ, không có khả năng đổi mới tư duy chính trị kịp thời đại, và do đó họ làm trì trệ sự phát triển của đất nước, họ kéo đất nước họ xuống hàng lạc hậu và nghèo đói. Tôi nghĩ nếu tôi là lãnh đạo của VN, tôi cảm thấy nhục khi nghe ý kiến như thế của một ông chỉ xứng tầm thị trưởng. Nhưng vấn đề là ông nói đúng.

Nhưng cũng phải nói thẳng là cái xã hội mà ông Lý kiến tạo chưa hẳn là “tối ưu” đâu. Nên nhớ rằng có thời ông ấy theo đuổi chủ nghĩa ưu sinh, khuyến khích người có bằng đại học lấy nhau. Ông hạn chế tự do báo chí và tự do ngôn luận. Ông tạo ra một “Anh Cả” (big brother) quan sát mọi hành vi của công dân. Ông can thiệp thô bạo vào đời sống riêng tư của người dân. Bởi thế, có lần một nhà báo hỏi tôi là đại học Việt Nam nên học đại học Singapore, tôi trả lời là không, bởi vì theo tôi biết qua vài trường hợp thì các đại học Singapore không có tự do học thuật như ở phương Tây. Nghe nói cái mô hình cai trị của ông Lý được giới lãnh đạo Tàu rất thích, và như thế thì cũng đủ để chúng ta cẩn thận với "mô hình Singapore". 

Nhưng có một điểm sáng của Singapore mà tôi thích, đó là phi ý thức hệ. Nói về ý thức hệ, ông Lý cho biết Singapore là một quốc gia phi ý thức hệ (ideology-free). Nếu có thì ông gọi đó là "Ý thức hệ Singapore", thấy cái gì tốt và có lợi cho quốc gia dân tộc thì làm, chứ không bị trói buộc vào bất cứ một ý thức hệ nào cả. Ông nói thêm rằng nếu nó [ý thức hệ Singapore] có hiệu quả, thì chúng ta hãy thử nghiệm nó xem sao. Nếu nó tốt thì chúng ta tiếp tục. Nếu nó không có hiệu quả thì chúng ta quẳng nó đi và thử cái khác. Một "triết lí" thực dụng và đơn giản thế mà tại sao những người đang lèo lái con thuyền VN không nhận ra. Tại sao phải bám theo một chủ nghĩa đã lỗi thời và hết sức sống.

PS. Biểu đồ so sánh thu nhập bình quân giữa Singapore và Việt Nam từ 1960-2011


Read more ...