Pages

Đánh giá năng lực nghiên cứu khoa học

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Thử tưởng tượng bạn là một nhà báo. Một ngày đẹp trời, một nhà khoa học liên lạc bạn để quảng bá (PR) một công trình nghiên cứu mà nhà khoa học cho là rất quan trọng, đã được công bố trên một tập san thuộc danh mục SCI (1). Làm sao và dựa vào tiêu chí gì để bạn có thể đánh giá tầm quan trọng của công trình đó? Trả lời câu hỏi này có thể giúp phóng viên phân biệt tầm cỡ của một công trình khoa học và phân biệt được giữa dỏm với thật.


Đọc bài báo trên Dân Trí (2) mà thấy buồn buồn, vì nó phản ảnh trình độ dân trí có vấn đề, nhất là những vấn đề liên quan đến khoa học. Một công trình phân tích hệ gen của một gia đình người Việt gồm 3 người dùng công nghệ Next-generation sequencing (Illumina HiSeq 2000) được công bố trên [Tập san] Journal of Biosciences (3). Công nghệ này thực ra là của Mĩ. Tài nguyên máy tính và phân tích thì của Âu châu. VN chỉ đóng góp chất liệu là chính. Một công trình rất bình thường trên một tập san rất thấp [trong chuyên ngành]. Thật ra, nói đúng ra đó là một "exercise", chứ không phải là một "công trình nghiên cứu". Ấy thế mà báo chí VN làm "nóng" lên cứ như là một khám phá gì quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bệnh (4-7)! Ngay cả những người phát minh ra công nghệ sequencing ở Mĩ cũng không dám tuyên bố như những gì tác giả tuyên bố trên báo chí VN. Tôi nghĩ sự việc phản ảnh một phần trình độ khoa học của VN và nhất là của giới báo chí.

Đọc những câu như "một tạp chí quốc tế trong hệ thống SCI", "Đây là tạp chí thuộc hệ thống SCI có uy tín trên thế giới với chỉ số ảnh hưởng IF là 1.93", "tuân thủ theo quy chuẩn quốc tế về y đức trong nghiên cứu", v.v. chỉ làm tôi thở dài. Đối với độc giả đại chúng hay các nhà khoa học không biết về chuyên ngành di truyền thì những câu đó có vẻ hàm ý nói công trình được công bố trên tập san đó là thuộc đỉnh cao khoa học. Nhưng những ai làm trong ngành di truyền học đều thấy những thông tin đó chỉ làm cho họ phì cười, và làm cho công trình bị đánh giá thấp, thậm chí rất thấp.

Journal of Biosciences là của Ấn Độ, tuy nó nằm trong SCI, nhưng nó không phải là tập san chuyên về di truyền học. Tập san này cũng chẳng có uy tín gì trong chuyên ngành di truyền học, vì tầm ảnh hưởng (impact factor, IF) cực kì thấp so với các tạp chí trong chuyên ngành khác. Nhà khoa học nghiêm chỉnh và có tên tuổi chẳng ai đăng công trình trên những tập san như thế. Trong chuyên ngành di truyền, các tập san có uy tín cao là Nature Genetics (IF 29.65), American Journal of Human Genetics (IF 10.99), Genome Research (13.61), PLoS Genetics (8.69), Human Genetics (IF 4.52), European Journal of Human Genetics (IF 4.22), thậm chí BMC Medical Genetics cũng có IF 2.45. Công bố được trên những tập san như Nature Genetics, Genome Research, hay American Journal of Human Genetics mới đáng được chú ý. Do đó, công trình trên Journal of Biosciences (là tập san "ngoại đạo" di truyền) chẳng có gì đáng chú ý, chứ chưa nói đến đáng để xưng tụng.

Còn nội dung của công trình thì cũng rất bình thường. Đó là một công trình mang tính mô tả, chứ hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì để tham chiếu hay chẩn đoán bệnh tật cả. Để làm giá trị tham chiếu, cần phải nghiên cứu trên nhiều người. Để có thể có giá trị chẩn đoán, cần phải có nhóm bệnh nhân và nhóm không bệnh. Xin nhắc lại là "nhóm", chứ không phải vài ba cá nhân. Công trình này không có những thông tin về bệnh, cho nên chỉ đơn giản là một công trình mô tả. [Nói nôm na] như mô tả căn nhà có bao nhiêu phòng, mỗi phòng được xây bằng bao nhiêu viên gạch và đá, gạch nặng bao nhiêu gram, v.v. Chính vì bản chất mô tả đơn giản, nên không thể nào công bố được trên các tập san có uy tín mà tôi vừa kể. Đó là chưa nói đến chất lượng trình bày và ngôn ngữ tiếng Anh trong bài báo chưa thích hợp cho các tập san có uy tín cao.

Sự việc nhắc lại một lần nữa rằng công bố quốc tế và nghiên cứu khoa học cũng có đẳng cấp. Không phải tập san khoa học nào cũng có giá trị như nhau. Không phải nghiên cứu khoa học nào cũng có giá trị giống nhau cho dù công bố trên tập san trong thư mục SCI. Những công trình khoa học phải qua thử thách của thời gian mới biết tác động ra sao. Trong khi chờ để đánh giá tác động, người ta thường nhìn vào tên tập sanimpact factor để đánh giá tiềm năng và tiên đoán tầm ảnh hưởng cũng như chất lượng của công trình nghiên cứu. Dĩ nhiên, impact factor không phải là chỉ số hoàn chỉnh (thậm chí bị nhiều người chỉ trích và lên án!) nhưng nó vẫn là cái tín hiệu mà giới khoa học và công chúng nhìn vào để có vài ý tưởng ban đầu về tầm của một nghiên cứu khoa học. Một công trình tầm cỡ cao không ai lại công bố trên những tập san làng nhàng ở một nước đang phát triển. Công bố trên những tập san có IF thấp, do đó, chỉ hạ thấp tác giả và làm thấp khoa học nước nhà.

Chúng tôi cũng thực hiện những nghiên cứu với công nghệ Next-generation sequencing và có "phenotype" lâm sàng nghiêm chỉnh trên 15 người. Nhưng chúng tôi không dám nghĩ đến -- chứ chưa nói đến -- việc công bố kết quả phân tích trên vài cá nhân, vì chúng tôi chưa xem đó là "nghiên cứu" mà mới chỉ là "exercise". Giả dụ như chúng tôi may mắn có tập san nào đó công bố, thì chúng tôi chẳng dám nhìn mặt đồng nghiệp. Không phải cái gì cũng đáng công bố, và không phải cái gì được công bố đều có giá trị như nhau và đáng được PR.

Phân tích hệ gen bằng công nghệ Next-generation sequencing (hay gọi tắt là WGS) ngày nay không phải là điều gì quá phức tạp, vì nó đã trở thành gần như một dịch vụ. Bất cứ nhà khoa học nào ở bất cứ nước nào, chỉ cần mẫu máu / DNA là có thể làm WGS. Họ chỉ cần gửi mẫu sang Úc (Viện của tôi), Âu châu, Mĩ, hay gần hơn là Bắc Kinh, nơi có những phòng thí nghiệm và máy Illumina HiSeq chuyên phân tích WGS với cái giá thường khoảng 1000 USD một cá nhân. Do đó, những nước nghèo chẳng ai đi đầu tư mua máy Illumina HiSeq, vì họ có thể sử dụng dịch vụ từ các nước trên. Làm gì với hàng triệu dữ liệu mới là điều quan trọng. Hiện nay, có nhiều trung tâm bioinformatics có dịch vụ phân tích dữ liệu với máy tính có công suất cao, nên nhà khoa học cũng chẳng cần phải tốn tiền mua máy tính để phân tích. Một nghiên cứu mà được thiết kế đơn giản thì dữ liệu, cho dù là hàng tỉ dữ liệu, chẳng giúp ích gì trong thực tế. Phân tích WGS còn mới, còn trong vòng nghiên cứu, và chưa thể dùng cho chẩn đoán bệnh. WGS nếu được áp dụng tốt có thể dẫn đến những khám phá về gen liên quan đến bệnh, nhưng các gen đó có ích gì trong việc chẩn đoán và tiên lượng bệnh thì là một vấn đề khác, đòi hỏi trình độ khoa học cao hơn. Do đó, xin đừng nói rằng VN là một trong 20 nước có thể phân tích WGS, vì nói như thế làm cho người ta cười chết. 

Tôi biết rất nhiều bạn đọc là nghiên cứu sinh ở nước ngoài rất "bức xúc" với các thông tin trên. Họ đang tiếp cận và làm việc với công nghệ di truyền học và bioinformatics. Họ biết "công trình" mà báo chí VN quảng bá rầm rộ rất tầm thường, nếu không muốn nói là rất thấp. Ngay cả giới nghiên cứu khoa học cũng biết như thế, nhưng phần lớn chỉ nói riêng với nhau chứ không có cơ hội lên tiếng.

VN chúng ta rất cần quảng bá và khuyến khích những công trình khoa học tốt và những nhà khoa học trẻ có tài. Bài báo khoa học mà báo chí VN quảng bá đáng được ghi nhận là một exercise, nhưng tôi e rằng cái exercise đó cần phải làm tốt hơn nữa và nhiều hơn nữa mới đạt được tiêu chí đáng được công bố (chứ chưa nói đến đáng được nhắc đến trên báo chí). Những xưng tụng không đúng chỉ làm phiền giới khoa học, mà còn làm cho cái tầm của khoa học VN bị đánh giá không cao.

====

(1) SCI (science citation index) là một cơ sở dữ liệu các tập san khoa học trên thế giới. Trên thế giới có hàng trăm ngàn tập san khoa học, nhưng chỉ có một số ít (khoảng 10 đến 15 ngàn) được "công nhận". Tập san có tên trong SCI có thể xem như là "được công nhận" nhưng chỉ một thời gian. Có thể xem:  http://tuanvannguyen.blogspot.com.au/2014/11/tap-san-sci-chat-luong-thap-hon-scie.html

(2) http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/pho-giao-su-tre-nghien-cuu-thanh-cong-he-gen-3-ca-the-mot-gia-dinh-nguoi-viet-1036318.htm






Để biết tập san khoa học trong ngành di truyền học, có thể tham khảo danh sách dưới đây: 

http://www.scimagojr.com/journalrank.php?area=2700&category=2716&country=all&year=2013&order=sjr&min=0&min_type=cd

Journal of Biosciences không có trong danh sách. 









Read more ...

Một con voi ở trong phòng

Thứ Tư, 25 tháng 2, 2015
Nhìn qua bảng số liệu dưới đây (số liệu của World Bank 2013) chúng ta dễ dàng thấy sức mua tương đương (PPP) của VN đứng vào hàng thấp nhất, sau các nước Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân, và Brunei:



GDP (tỉ USD)
PPP (USD)
Singapore
297.9
78,763
Brunei
16.1
71,776
Mã Lai
313.2
23,338
Thái Lan
387.3
14,393
Nam Dương
868.3
9,561
Phi Luật Tân
272.1
6,536
Việt Nam
171.4
5,294

Là người Việt còn quan tâm đến đất nước, ai mà không chạnh lòng, thậm chí tức tối, trước tình hình trên. Chính Thủ tướng Chính phủ cũng từng đặt câu hỏi phải làm gì để không đứng cuối bảng? Do đó, câu hỏi đầu năm được đặt ra là VN phải làm gì để theo kịp các nước chung quanh. Các vị "thinkers" như ông Vũ Ngọc Hoàng thì nói “phải đổi mới, đổi mới là con đường duy nhất. Cần phải thoáng mở đầu óc, thoáng mở tư duy và quyết tâm cao trong hành động." Còn bà Khuất Thu Hồng nhấn mạnh thêm: "Nếu chúng ta không phát triển được, không tận dụng được tiềm năng, không tận dụng được cơ hội để phát triển lên rõ ràng là có tội với dân tộc" (1).

Tôi tự hỏi "dân tộc" là ai? Nói ra thì nghe có vẻ hay hay, nhưng trong thực tế câu nói đó không có ý nghĩa gì đáng chú ý. Còn nói chúng ta có tội với tiền nhân thì cần phải minh định "chúng ta" là ai. Ai làm cho đất nước này nghèo? Chắc chắn không phải "nhân dân", mà phải là những người có quyền thế và lèo lái con thuyền quốc gia. Nếu nhận "có tội với tiền nhân" rồi sao nữa? Chẳng lẽ chỉ nói suông nhận tội là xong sao? Đúng là cách nói rhetoric, nói mà không nói.

Chỉ có Tiến sĩ Nguyễn Quang A là nói thẳng và dễ hiểu. Ông nói là cần phải dẹp bỏ vai trò chủ đạo của các tập đoàn thuộc Nhà nước và giúp nền kinh tế sở hữu tư nhân: "Cái thứ nhất là phải triệt để xóa bỏ đường lối sai lầm của Đảng CSVN là: Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trên cơ sở đó có thể vạch ra các chính sách kinh tế thúc đẩy cho sự phát triển của khu vực kinh tế Tư nhân trong nước và tạo điều kiện cho chúng hoạt động ngang ngửa, sòng phẳng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác" (2). Ông nói thêm: “Nền Kinh tế thuộc sở hữu tư nhân phải đóng vai trò trung tâm, dẫn dắt và vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Chỉ có nền kinh tế tư nhân nó mới có những động lực để thúc đẩy nền kinh tế chung phát triển. Kinh tế Nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo trong một nền kinh tế được, nó chỉ giữ một vai trò có tính chất phù trợ nào đấy mà thôi. Tôi nghĩ biện pháp quan trọng nhất là phải xóa bỏ tất cả những cái ưu ái, trước hết là các ưu ái đối với DN Nhà nước, thậm chí cả những ưu ái đối với DN Đầu tư nước ngoài. Tôi không nghĩ các DN Tư nhân cần có sự hướng dẫn hay hỗ trợ của Nhà nước, tôi tin họ sẽ tự lo lấy của họ. Song cái quan trọng là phải để cho nó có một môi trường thông thoáng và không bị ai chèn ép.”

Đồng ý với TS Quang A. Người phương Tây có câu an elephant in the room (một con voi ở trong phòng) để chỉ một vấn đề / giải pháp mà ai cũng thấy nhưng chẳng ai muốn/dám nói đến. (Cũng như con voi nó rất bự ở trong phòng, nhưng không ai dám nói đến nó mà chỉ nói xa gần, bóng bẩy). Hai vị thinkers kia thừa biết và thấy "con voi" làm cho VN nghèo nàn và tụt hậu, nhưng không dám nói đến nó, chỉ có TS Quang A nói thẳng và dễ hiểu. Chứng kiến sai trái mà không nói cũng là có tội vậy.  

====



Read more ...

Think Big

Thứ Hai, 23 tháng 2, 2015
Lâu lắm rồi mới nghe một bài giảng seminar vừa hay vừa có ích. Trưa nay Viện Garvan có một khách mời là Giáo sư Mark Caulfield (1) từ Genomics England (Anh). Ông đến đây để nói về dự án “The 100,000 Genomes Project”. Dự án là một loại “Khoa học lớn” – big science được khởi xướng từ … Thủ tướng Anh!


Gs Caulfield kể rằng một hôm, sau khi đắc cử, thủ tướng Anh triệu tập một nhóm giáo sư ngành y đến để bàn chuyện tương lai, và ông hỏi trong ngành y cái gì là “lớn” hiện nay mà nước Anh cần phải đi đầu. Các giáo sư trả lời rằng genomics và ứng dụng genomics là chủ đề lớn hiện nay. Thủ tướng hỏi tiếp rằng “với sự hạn chế về ngân sách và tài nguyên hiện nay, và nếu tôi phê chuẩn một ngân sách cho genomics thì các ông sẽ làm gì”, các vị giáo sư trả lời rằng có nhiều bệnh hiếm mà y khoa đang bó tay nhưng với công nghệ genomics thì có thể giúp để đi đến chẩn đoán sớm và hi vọng điều trị tốt hơn. Ông thủ tướng thổ lộ rằng con trai của ông cũng mới qua đời vì một bệnh hiếm và ông rất hào hứng với ý tưởng của các giáo sư, rồi ông hỏi mỗi phân tích mỗi genome tốn bao nhiêu, thì các giáo sư nói tốn khoảng 1000 bảng Anh. Ông thủ tướng không do dự phê chuẩn 100 triệu bảng Anh để nghiên cứu. Với 100 triệu bảng Anh, các nhà khoa học có thể nghiên cứu genomics trên 1000 bệnh hiếm, và thế là lấy tên dự án là “The 100,000 Genomes Project”!

Đây là một dự án lớn, và đòi hỏi hợp tác từ hàng ngàn bác sĩ chuyên khoa, các chuyên gia di truyền học, sinh học, thống kê học, khoa học máy tính, sinh tin học. Họ sẽ xây dựng một trung tâm dữ liệu lưu trữ toàn bộ các sequence của 1000 bệnh hiếm, và dữ liệu sẽ được chia sẻ với bất cứ nhà khoa học nào trên thế giới. Họ sẽ phát triển các kĩ thuật và phương pháp chẩn đoán các bệnh hiếm qua phân tích genomics. Gs Caulfield cho rằng sau khi hoàn tất, dự án sẽ để lại một di sản lâu dài về năng lực nghiên cứu của Anh và những dữ liệu di truyền chưa từng có trước đây. Ông nói một cái ý chẳng có gì mới nhưng cần lặp lại là: làm big science cần phải có hợp tác của nhiều bộ môn khoa học, và chỉ có hợp tác mới mở rộng được biên cương khoa học.

Trông người lại nghĩ đến ta. Tôi ước gì Chính phủ VN cũng tỏ ra quan tâm đến khoa học và y khoa như ông thủ tướng Anh. Không đòi hỏi thành viên chính phủ phải am hiểu khoa học, chỉ cần họ biết lắng nghe những ý kiến của các chuyên gia thứ thiệt. Tôi tưởng tượng đến ngày mà ngài thủ tướng VN triệu tập các giáo sư y khoa để hỏi họ xem vấn đề lớn nhất hiện nay là gì, và với tiền bạc còn eo hẹp họ sẽ làm gì. Có bao giờ họ nghĩ đến những dự án “big science”, thay vì những thứ linh tinh, tủn mủn.

VN có thể làm dự án như Anh làm không? Tôi nghĩ là làm được. VN là nơi có nhiều bệnh hiếm mà thế giới có khi rất khó tìm, là “trung tâm” của các bệnh truyền nhiễm, tức là nơi có "chất liệu" cho "big science". VN có nhiều chuyên gia về khoa học máy tính, về tính toán, rất cần thiết cho các dự án như của Gs Caulfield. VN tuy còn thiếu chuyên gia về di truyền, nhưng có thể “nhập” từ ngoài. Tôi nghĩ vấn đề lớn nhất ở VN hiện nay là xây dựng năng lực nghiên cứu. Một cách xây dựng năng lực nghiên cứu thực tế và hiệu quả là “vừa học, vừa làm”, tức là tham gia vào những dự án “big science” để có thêm kĩ năng chuyên môn và mở rộng tầm nhìn về nghiên cứu khoa học. Đó cũng là một cách để hội nhập quốc tế.

====

Read more ...