Pages

Trò chuyện về đánh giá nhà khoa học và sở hữu trí tuệ

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

Xin giới thiệu một bài “trò chuyện” cùng phóng viên báo Lao Động. Phóng viên gửi đến nhiều câu hỏi, nhưng khi đăng thì báo chắt lọc còn có vài câu (xem bài Đẳng cấp nhà khoa học không phải là sản phẩm của PR”). Thật ra, bài phỏng vấn chẳng có dính dáng gì đến vụ kiện gây ồn ào gần đây do Trường ĐH Tôn Đức Thắng khởi xướng, nhưng báo Lao Động lại để bài phỏng vấn trong mục vụ kiện đó!  Sẵn đây, tôi cũng minh định một “conflict of interest” rằng tôi là người thành lập Nhóm nghiên cứu cơ xương tại Trường ĐH Tôn Đức Thắng [không lương], nhưng tôi và nhóm nghiên cứu không có liên quan gì đến vụ kiện.


Đánh giá nhà khoa học như thế nào?

Lao Động (LĐ): Người ta thường hay nói môi trường khoa học rất bình đẳng. Xin hỏi Giáo sư trong khoa học có phân biệt đẳng cấp không?

NVT: Cộng đồng khoa học cũng như bất cứ cộng đồng quần thể nào, đều có tổ chức và tôn ti trật tự. Nghiên cứu khoa học có công trình với phẩm chất cao, nhưng cũng có công trình với phẩm chất làng nhàng. Như anh thấy, trong hệ thống khoa bảng, người ta phân biệt chức danh giáo sư, phó giáo sư, giảng viên. Sự phân biệt đó đều có tiêu chuẩn. Nhưng mỗi đại học có tiêu chuẩn riêng của họ. Vì thế, đẳng cấp trong khoa học không chỉ thể hiện qua phân tầng nhà khoa học mà còn phân nhóm các trường đại học và các viện nghiên cứu.  Trường đại học nằm trong bảng “top 100” (hay đẳng cấp quốc tế) phải khác với trường làng nhàng về nhiều khía cạnh khoa học và danh tiếng. Nhà khoa học hàng đầu phải khác với nhà khoa học làng nhàng về mức độ đóng góp và danh tiếng. Do đó, câu trả lời ngắn là: khoa học có đẳng cấp.

LĐ: Xin Giáo sư cho biết thế nào là nhà khoa học hàng đầu? Lấy tiêu chuẩn gì để xác định là nhà khoa học hàng đầu? 

NVT: Cái gọi là “nhà khoa học hàng đầu” và những tính từ tiếng Anh đi kèm như eminent, prominent, renowned, well-known, celabrated, distinguished, world-class, v.v. là sản phẩm của truyền thông, của PR, chứ chẳng có tiêu chuẩn cụ thể nào để xác định ông A là nhà khoa học hàng đầu còn bà B thì không. Tuy nhiên, đối với người trong ngành, người ta có thể đánh giá đẳng cấp một nhà khoa học qua công bố quốc tế, tầm ảnh hưởng của nghiên cứu, và sự ghi nhận của đồng nghiệp trong ngành.

Công bố quốc tế thể hiện qua số bài báo khoa học, và những tập san khoa học mà nhà khoa học thường công bố, và tần số trích dẫn. Những nhà khoa học nổi danh quốc tế thường có một bề dày nghiên cứu khoa học rất tốt, có người có cả 300-600 bài báo khoa học. Nhưng con số bài báo không quan trọng bằng chất lượng, và chất lượng phản ảnh qua tập san. Nếu một nhà khoa học công bố toàn trên các tập san hàng đầu (có impact factor [IF] cao) thì rõ ràng là thuộc đẳng cấp cao, còn một nhà khoa học chỉ công bố trên tập san làng nhàng hay IF thấp thì thuộc đẳng cấp thấp. IF không phải là chỉ số hoàn hảo, nhưng là thước đo quan trọng để đánh giá chất lượng tập san mà nhà khoa học công bố. Tầm ảnh hưởng thì có thể đánh giá qua số lần trích dẫn. Nếu hai nhà khoa học cùng ngành và có cùng thời gian nghiên cứu, nhưng nếu ông A có hơn 10,000 trích dẫn, còn ông B chỉ có 1000 trích dẫn thì rõ ràng đẳng cấp của họ rất khác nhau.

Nhưng đó là những cách đánh giá mang tính định lượng, cần phải có đánh giá định tính. Những chỉ số định lượng trên cần phải kết hợp với ý kiến khách quan của các chuyên gia trong ngành thì mới có một đánh giá chính xác hơn. Tuy nhiên, với các nhà tuyển dụng và đánh giá hồ sơ thì những chỉ số trên được xem như là tiêu chí hàng đầu để xếp hạng nhà khoa học.

LĐ: Nếu một nhà khoa học có 200 bài báo khoa học. Theo Giáo sư, ý nghĩa của số lượng công trình khoa học là như thế nào? 

NVT: Con số này chẳng có ý nghĩa gì nếu không phân chia theo thể loại. Có nhiều người nói họ có hàng trăm bài báo khoa học, nhưng họ tính cả những bài trong hội nghị, những bài trong kỉ yếu hội thảo, báo cáo nội bộ, v.v. nên làm cho đánh giá khó khăn. Khi nói “bài báo khoa học” hay papers, giới khoa học chỉ nói những bài công bố trên các tập san có bình duyệt trong hệ thống danh mục ISI, hoặc những bài có tiêu chuẩn khoa học tương tự. Những bài trong kỉ yếu hội nghị hay báo cáo kĩ thuật không bao giờ được xem là “bài báo khoa học” vì không qua quá trình bình duyệt nghiêm chỉnh. 

LĐ: Còn chất lượng thì sao, thưa Giáo sư? 

NVT: Chất lượng khoa học rất quan trọng. Con số bài báo khoa học chỉ phản ảnh mức độ hoạt động nghiên cứu, chứ không phải chất lượng. Nhà khoa học có thể rất tích cực trong nghiên cứu, nhưng nghiên cứu không có tác động cao thì không thể được đánh giá cao. Cách đánh giá chất lượng tốt nhất là đọc bài báo và xem xét chi tiết trong đó. Nhưng đối với nhiều nhà tuyển dụng họ không có thì giờ để đọc hàng ngàn bài của hàng trăm ứng viên, nên họ có con đường tắt: xem chỉ số IF của tập san.

Có những nhà khoa học nổi tiếng chỉ có vài chục bài nhưng trên toàn những tập san danh tiếng như Science, Nature, Cell, PNAS, v.v. thì đó là một thể hiện về đẳng cấp và chất lượng hơn những người có hàng trăm bài trên các tập san loại xoàng. Tôi biết nhiều nhà khoa học có hàng trăm bài trên các tập san ISI, nhưng chẳng có bài nào trên các tập san loại “đỉnh”, và do đó rất khó xem là có đẳng cấp quốc tế.

LĐ: Trong quyển sách “Đi vào nghiên cứu khoa học”, Giáo sư có đề cập đến chỉ số H của một nhà khoa học. Chỉ số H của các nhà khoa học là gì và ý nghĩa ra sao, thưa Giáo sư? 

NVT:  Đây là một chỉ số giới khoa học hay ưa dùng. Năm 2005, nhà vật lí học Jorge Hirsch (Đại học California - San Diego) đề xướng chỉ số H để đánh giá tầm ảnh hưởng của một nhà khoa học. Chỉ số H được tính toán dựa vào số công trình công bố và số lần trích dẫn. Nếu một nhà khoa học có chỉ số H = 10 có nghĩa là nhà khoa học này có 10 bài báo với mỗi bài được trích dẫn ít nhất là 10 lần trở lên. Chỉ số H thường khác nhau giữa các ngành, nên người ta phải chuẩn hoá, và cách chuẩn hoá là lấy ngành vật lí làm chuẩn.

Như tôi nói, đại đa số giới khoa học sử dụng chỉ số H để đánh giá một nhà khoa học. Kinh nghiệm tôi cho thấy các hội đồng đề bạt chức danh, các cơ quan tài trợ nghiên cứu khoa học, các nhà tuyển dụng, v.v. đều dùng chỉ số H để đánh giá. Cá nhân tôi, khi làm đơn đề bạt chức danh giáo sư, người ta yêu cầu tôi phải báo cáo chỉ số H và so sánh với những đồng nghiệp có cùng chức danh. Theo cách hiểu chung, là giáo sư khá phải có chỉ số H từ 20 trở lên. Một nhà khoa học xuất sắc thường có chỉ số H trên 30. Có một nghiên cứu cho thấy trong số các nhà khoa học y sinh học, vật lí học, hóa học từng chiếm giải Nobel thì thấy 84% có chỉ số H trên 30. Phân tích trên 147 nhà khoa học ở Hà Lan cho thấy hệ số tương quan giữa chỉ số H và uy tín cũng như số lần trích dẫn lên đến 0.90. Dù chỉ số H vẫn chưa hoàn hảo vì vấn đề đa tác giả và thời gian, nhưng nói chung chỉ số H có tương quan đến tầm ảnh hưởng và danh tiếng của nhà khoa học.

LĐ: Ngoài các chỉ số định lượng, còn yếu tố nào khác để đánh giá nhà khoa học?

NVT: Ngoài các tiêu chí định lượng, còn có những tiêu chí khác mà giới khoa học dùng thuật ngữ “recognition” (tạm dịch là “thừa nhận”) để mô tả chung. Thừa nhận ở đây có nghĩa là được mời viết tổng quan cho các tập san danh tiếng có IF cao, được mời giảng hoặc chủ toạ trong các hội nghị lớn, được mời giảng bài khoáng đại trong các hội nghị. Ngoài ra các giải thưởng do các hiệp hội khoa học trao tặng cũng là một tín hiệu cho thấy nhà khoa học có đóng góp quan trọng. Cần phân biệt với các giải thưởng mang tính cộng đồng vì nó không có giá trị khoa học. Ở Úc có những giải thưởng cao quí như AO, AM do Nhà nước trao tặng, nhưng trong khoa học những giải thưởng đó không quan trọng bằng những giải do các hội đoàn chuyên môn trao tặng.

LĐ: Nhưng ý kiến đánh giá của đồng nghiệp cũng quan trọng chứ, thưa Giáo sư?

NVT: Dĩ nhiên, ý kiến của đồng nghiệp là quan trọng, nhưng đồng nghiệp thường không khách quan, và đánh giá của họ cũng tuỳ thuộc vào bối cảnh. Trong khoa học, đồng nghiệp quen nhau thường khen nhau vì họ muốn giúp nhau. Tôi đọc hàng trăm thư giới thiệu (reference letters) ứng viên, tôi không thấy thư nào đánh giá nghiêm chỉnh về ứng viên, mà chỉ toàn là khen, có khi khen “tận mây xanh” mà tôi nghi ngờ là không thật. Có lần chúng tôi xem xét một ứng viên chức danh giáo sư được các đồng nghiệp đánh giá rất cao, nhưng chỉ số H của ứng viên chỉ 11 và số trích dẫn chưa đầy con số 500, nên chúng tôi biết những đánh giá của đồng nghiệp là không chính xác. Ngược lại, có đồng nghiệp có thể do có vấn đề cá nhân, nên khi tôi hỏi họ thì toàn nghe những đánh giá tiêu cực, có khi quá đáng mà tôi biết là không đúng. Do đó, đánh giá của đồng nghiệp trong ngành tuy quan trọng nhưng chỉ có tính bổ sung, chứ rất khó dựa vào đó mà quyết định được.

Sở hữu trí tuệ

LĐ: Theo Giáo sư, sản phẩm trí tuệ là gì?

NVT: Đây là một câu hỏi khó có câu trả lời chính xác. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung của giới khoa học thì sản phẩm trí tuệ là những ứng dụng ý tưởng để phát triển thành một cái gì mới và nguyên gốc (original). Những “cái gì” có thể là một bài báo khoa học, phương pháp phân tích mới, sáng chế mới, một thương hiệu, thiết kế, hay sản phẩm nghệ thuật.

Tuy nhiên, trong khoa học có những cái không được xem là sản phẩm trí tuệ. Những dự án mang tính cơ sở vật chất, như xây phòng lab mới, xây dựng bộ môn mới, xây dựng nhóm nghiên cứu, làm tạp chí mới, v.v. thì không phải là sản phẩm trí tuệ. Nhưng bản thiết kế xây dựng và bản đề cương cho các đề án thì có thể xem là sản phẩm trí tuệ.

LĐ: Nếu đề cương của đề án được phát triển, thì đó là sản phẩm của tác giả hay của nhà trường?

NVT: Tôi nghĩ là sản phẩm của cả hai. Ý tưởng trong đề án là của tác giả, nhưng tài liệu đề cương là của trường. Do đó, chúng ta thấy khi nhà khoa học nghỉ việc, họ không được đem theo những đề cương đã phát triển ở trường cũ. Bệnh viện tôi công tác mấy năm trước sa thải một bác sĩ cao cấp, và bệnh viên niêm phong tất cả tài liệu ông đang có trong văn phòng, vì họ sợ ông đem những đề cương nghiên cứu sang chỗ khác. Dĩ nhiên, ông bác sĩ có thể đem ý tưởng đi và phát triển đề cương mới, nhưng ông không có quyền đem đề cương sang chỗ khác.

LĐ: Nếu Giáo sư công bố một bài báo khoa học trên một tập san, ai là người chủ của bài báo, Giáo sư hay là trường đại học mà giáo sư đang công tác?

NVT: Trong công bố khoa học, khái niệm “chủ” hay “sở hữu” hơi khó để phân định, vì trong thực tế ít ai đặt ra vấn đề này. Khi tôi công bố một bài báo khoa học, đó là một sản phẩm trí tuệ, thì tôi là sở hữu chủ của ý tưởng trong bài báo. Nhưng nhà xuất bản thường thường giữ tác quyền (copyright) những hình ảnh, biểu đồ, bảng số liệu, v.v. trong bài báo! Điều này có nghĩa là sau này nếu tôi muốn sử dụng các biểu đồ trong bài báo đó tôi phải xin phép nhà xuất bản! Trường đại học nơi tôi công tác không phải là sở hữu chủ của bài báo, nhưng trường có quyền xem đó là bài báo của trường vì trong địa chỉ công tác tôi có ghi tên trường.  Lí do đơn giản là vì tôi làm nghiên cứu dùng cơ sở vật chất của trường, có thể do trường trả lương, và tôi cũng có khi nhờ thương hiệu của trường. Do đó, trường có quyền liệt kê bài báo của tôi như là một sản phẩm của trường.

LĐ: Nhưng nếu nhà khoa học có hơn một địa chỉ công tác trên bài báo thì nơi nào là sở hữu chính?

NVT: Điều anh nói là tình trạng một nhà khoa học có nhiều nơi công tác hay “affiliation”. Affiliation rất quan trọng đến thương hiệu. Chẳng hạn như khi tôi công bố nghiên cứu, tôi có đến 3 hay 4 affiliation (tuỳ theo công trình) như Viện Garvan, Bệnh viện St Vincent, Đại học UNSW, Đại học UTS, v.v. thì mỗi nơi đều có quyền liệt kê bài báo của tôi như là sản phẩm của trường. Còn nơi sở hữu chính là nơi tôi làm nghiên cứu. Đó chính là lí do tại sao trong các bảng xếp hạng đại học “top 200”, người ta tính cả những công trình mà các nhà khoa học đã từng thực hiện tại trường trong quá khứ dù hiện nay nhà khoa học không còn công tác ở trường nữa. Do đó, kí tên một bài báo hay một đề cương dưới danh nghĩa một trường đại học cũng có nghĩa là đồng ý để nhà trường xem đó là sản phẩm trí tuệ của họ.

LĐ: Nếu Giáo sư sáng chế ra phương pháp và có khả năng thương mại hoá, Giáo sư có được sở hữu 100% giáo trị thương mại?

NVT: Câu trả lời đơn giản là: không. Đụng đến tiền bạc thì các trường đại học và viện nghiên cứu rất … quan tâm. Nếu tôi phát minh ra một phương pháp, đăng kí bằng sáng chế, và thương mại hoá thì số tiền thu được từ sản phẩm sẽ được chia giữa tôi và trường đại học.  Tỉ lệ chia thì còn phụ thuộc vào qui định từng nơi, nhưng thường thường trường lấy nhiều hơn nhà khoa học. Có trường qui định tỉ lệ 60-40 (trường hưởng 60%, nhà khoa học hưởng 40%), nhưng cũng có vài nơi “rộng rãi” hơn. Nhưng nói chung, nhà khoa học không được hưởng 100% vì sản phẩm trí tuệ còn là của trường.

LĐ: Giáo sư có thể mang sáng chế sang đại học khác, và trường cũ không còn hưởng?

NVT: Nếu tôi chuyển sang trường khác, thì trường cũ vẫn hưởng phần trăm như qui định, bởi vì họ xem đó là sản phẩm của họ, và tôi vẫn hưởng lợi tức như qui định, không có gì thay đổi. Trường mới không dính dáng gì đến bằng sáng chế mà tôi làm ở trường cũ, trường mới không thể hưởng bất cứ lợi tức gì từ bằng sáng chế của tôi.

LĐ: Vấn đề sỡ hữu trí tuệ đối với những đồng tác giả của một sản phẩm khoa học thì được hiểu như thế nào, thưa Giáo sư?

NVT: Cái này còn tuỳ theo thoả thuận của nơi công tác. Thông thường khi làm chung trong nhóm, ai cũng biết ai là tác giả chính và ai là tác giả phụ, nên việc đứng tên đăng kí bằng sáng chế không có vấn đề gì. Chẳng hạn như có bài báo có đến 6 tác giả, nhưng khi đăng kí bằng sáng chế thì chỉ có 3 người đứng tên. Nếu có tranh chấp tác giả thì phải dựa vào tiêu chuẩn quốc tế ICMJE để xác định ai đủ tư cách tác giả. Thông thường để đứng tên tác giả một sản phẩm trí tuệ thì phải đáp ứng ít nhất 2 tiêu chuẩn chính: có đóng góp về ý tưởng và thiết kế, và soạn thảo văn bản đầu tiên.

LĐ: Liên quan đến đề tài sở hữu trí tuệ, có quan điểm cho rằng tạp chí khoa học là của nhà khoa học, trường đại học không được đụng đến. Giáo sư nghĩ quan điểm đó đúng không?

NVT: Tôi nghĩ quan điểm đó không đúng với những gì tôi biết trong thực tế. Trước hết, “nhà khoa học” là ai? Kế đến, thế nào là “của”, tức sở hữu. Nếu hiểu sở hữu chủ có nghĩa là ông chủ điều hành và quán lí, thì thông thường các hiệp hội chuyên ngành và thỉnh thoảng trường đại học là sở hữu chủ tạp chí khoa học. Nếu tạp chí do nhà xuất bản lập ra thì sở hữu chủ là nhà xuất bản. Chắc chắn tạp chí khoa học không phải của một cá nhân nhà khoa học! Ngay cả nhà khoa học trong vai trò tổng biên tập cũng không phải là sở hữu chủ của tạp chí. Thật ra, cá nhân nhà khoa học chẳng có quyền gì trong tạp chí khoa học. Ngay cả nộp bài cho tạp chí còn phải trả tiền, và khi bài đã đăng thì bản quyền lại thuộc nhà xuất bản. Đây chính là một xung đột giữa nhà xuất bản và nhà khoa học, nhưng đây là một đề tài khác.

LĐ: Trong quá trình làm nghiên cứu, chắc Giáo sư đã nhận được nhiều sự tài trợ. Trách nhiệm của Giáo sư đương nhiên là phải làm ra sản phẩm khoa học như đã cam kết. Ngoài ra, Giáo sư còn quan tâm vấn đề gì nữa không?

NVT: Thật ra, ở các nước phương Tây, các tổ chức tài trợ cho nghiên cứu khoa học không đòi hỏi nhà khoa học phải làm ra sản phẩm gì, hay công bố bao nhiêu bài báo và công bố ở đâu. Tuy nhiên, họ kì vọng phải có sản phẩm trí tuệ, và sản phẩm phải có chất lượng. Còn tiêu chuẩn về chất lượng thì như tôi đã đề cập trong phần đầu.

Trong khoảng 20 năm nay, nhiều tổ chức tài trợ yêu cầu nhà khoa học phải ghi lời cảm tạ tổ chức tài trợ ở bất cứ sản phẩm nào và bất cứ nơi nào có dùng dữ liệu liên quan đến tài trợ của họ. Có tổ chức có hẳn những cách viết mà nhà khoa học phải tuân theo. Nhưng các nhà khoa học nói chung đều có đạo đức tốt và lòng tự trọng cao, nên dù không có yêu cầu, họ vẫn ghi cảm tạ trong tất cả sản phẩm trí tuệ họ có được từ tài trợ.


Read more ...

Bàn về “Bài tập tiếng Anh” #2

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Cám ơn các bạn đã tham gia vào giải bài tập #2. Bài tập này có 2 câu tôi trích ra từ một bài nói chuyện: (1) “An university lecturer must be an active scientist, the transmitter-of-the-fire, and an intellectual.” (2) “But being a scientist, doing research in Viet Nam is yet a big challenge, isn’t it?” Câu hỏi đặt ra là “viết lại sao cho đúng hơn và chỉnh chu hơn”. Nhưng một số bạn có vẻ đi ra ngoài phạm vi câu hỏi và có chút “fatansy” rất phong phú và hay. Tuy nhiên, tôi nghĩ chúng ta nên bám sát câu hỏi thì tốt hơn.


Nói về ý tưởng, tôi nghĩ câu số 1 có thể hiểu là “Một giảng viên đại học phải là một nhà khoa học tích cực, một người truyền lửa, và một nhà trí thức”. Chúng ta có thể tranh luận về phát biểu mang tính ví von này, nhưng ở đây không phải là nơi làm việc đó. Tôi chỉ lưu ý chữ “truyền lửa”, vì đó là một chữ khá đặc thù trong thế giới các nước XHCN. Chẳng hiểu sao người cộng sản thích lửa. Tôi chưa nghe ở các nước phương Tây người ta nói đến truyền lửa cho sinh viên. Do đó, nếu giữ chữ “transmitter of fire” chắc chắn sẽ làm cho nhiều người phương Tây không hiểu.

Câu văn 1 còn có một điểm hơi bất thường. Câu văn có 3 điểm, nhưng 2 điểm (một nhà khoa học và nhà trí thức) thì nghiêm túc, còn điểm “truyền lửa” thì là cách nói ví von.

Câu số 1 trên đây rõ ràng là sai sót về văn phạm. Câu văn được viết theo thể parallelism, có nghĩa là có nhiều attributes (thuộc ngữ) bổ nghĩa. Nhưng trong câu văn trên attributes được viết thiếu nhất quán và đó là một sai sót. Trong một bài giảng về scientific writing, tôi có nói là không nên viết We could not decide between rental, leasing, and buying a new densitometer”, mà phải viết là “We could not decide between renting, leasing, and buying a new densitometer”. Dùng chữ phải nhất quán trong cấu trúc paralellism.

Câu số 2, “But being a scientist, doing research in Viet Nam is yet a big challenge, isn’t it?”, hơi khó hiểu vì cách viết và dùng chữ. Có thể tạm hiểu là “Nhưng là một nhà khoa học, làm nghiên cứu ở Việt Nam vẫn là một thách thức lớn, phải không?” Câu này lẫn lộn giữa hai văn phong formalinformal. Chỗ formal là “being a scientist” và “doing research”, còn chỗ informal là “yet a big challenge” và câu hỏi “is’t it”.

Sau đây là vài nhận xét ngắn về đề nghị của các bạn:

Cô Nguyên Thủy “1. A university lecturer must be an active scientist, a fire transmitter and an intellectual. 2. To a scientist, doing research in Vietnam is yet a big challenge, isn't it?”

Cách viết này là sát với ý nghĩa gốc của tác giả, và rất chuẩn về văn phạm tiếng Anh. Bản gốc “An University …” rõ ràng là sai văn phạm, nên sửa lại “A University …” là hoàn toàn đúng. Còn “the transmitter-of-the-fire” trong bản gốc cũng có vấn đề về parallel, vì 2 chữ kia đều dùng mạo từ “a”, nên ở đây cũng phải sửa lại là mạo từ “a”. Thay vì viết the transmitter-of-the-fire” là cách viết nhấn mạnh và õng ẹo, nên viết gọn như Cô Nguyên Thuỷ đề nghị là “a fire transmitter” là hoàn toàn đúng và chuẩn. Câu hai, Cô Nguyên Thuỷ dùng “To a scientist” cũng hoàn toàn đúng. Toàn câu văn thứ 2 đều chuẩn, chỉ có một chữ yet nếu thay bằng still thì người đọc dễ hiểu hơn. Chữ big thì ok, nhưng trong văn phong khoa học thì nó có vẻ … bình dân và mang tính truyền thông. Nên suy nghĩ đến một chữ khác thay thế cho big.

Khoa Epi “Sentence 1: "A university lecturer should play at once the three following roles: an active scientist, an influential inspirer and an incisive intellectual."
Sentence 2: "However choosing to be an scientist doing research in Vietnam remains a big challenge, doesn't it?"

Cách viết câu 1 đã đi khá xa so với câu hỏi và câu văn gốc. Câu văn #1 thay vì làm gọn, em làm cho dài hơn và phức tạp hơn. Nhưng em có cái hay là em bỏ chữ fire đi, vì chữ đó ghê quá :-). Trong tiếng Anh, chữ inspire thường dùng ở thể passive hay như là gerund/adjective, ít ai dùng inspirer.  Cách viết the three following roles” là văn phong VN, nên thay bằng “the following three roles” thì dễ hiểu và logical hơn. Câu 2 thì em đi xa với ý nghĩa ban đầu, vì không có lựa chọn (choosing to be a scientist). Vả lại câu văn của em quá luộm thuộm và chưa chuẩn, vì dùng 2 gerund – rất nguy hiểm. Người ta viết “a scientist” chứ đâu ai viết “an scientist”!


Duc Ha  đề nghị:
“Q1: Qualities of a university lecturer must be active, inspired, and intellectual.
Q2: There is a great challenge for a scientist in research in Vietnam, isn’t there?”

Đề nghị này thì chưa đạt. Câu 1 nó có cái gì nhàn nhạt. Không ai viết “Qualities … must”, mà thường là “Qualities … include”). Vả lại, cấu trúc parallel có vấn đề, vì hai chữ đầu là active, inspired (đáng lẽ là inspirational) là tính từ, nhưng intellectual có thể hiểu là danh từ.  Cấu trúc parallel, nên nhớ rằng, đòi hỏi các attributes phải nhất quán. Câu 2 đọc không “êm” mà có cứ như cà dựt cà tưng, và sai văn phạm. Vào đầu, em nói “there is”, nhưng cuối câu em lại hỏi “isn’t there” là sao? Chữ sau “đá” chữ trước. Chưa ổn. Sai văn phạm ở chỗ “for a scientist in research in Vietnam” không có động từ.

Vo Chau Q1: “An university lecturer must be an active scientist, a transmitter-of-the-fire, and an intellectual.” -> change the to a.

Đúng. Nên thay bằng “a”. Nhưng “transmitter-of-the-fire” cũng nên viết ngắn hơn. Tại sao có “the fire”? Fire nào?

An Nhien “1. A faculty should be an intellectual, a scientist and an inventor .
2. However, being a scientist and making study in Vietnam can be a challenge.”

Ah, em này thay đổi thứ tự câu gốc. Câu gốc là nhà khoa học trước, rồi mới đến truyền lửa, và nhà trí thức. Nhưng em lại thay thứ tự thành nhà trí thức, nhà khoa học và nhà sáng chế! Không nên dùng chữ faculty ở đây vì nó bao gồm giảng viên và nhà nghiên cứu, trong khi câu gốc đề cập cụ thể đến giảng viên đại học thôi. Câu 2 thì chưa đạt. Không ai nói “making a study” cả. Nên nhớ câu gốc có chữ “yet”, còn ở đây em viết là “can be” thì chưa đúng với ý nghĩa ban đầu của tác giả.

TTCuong: “A university lecturer must be an active and inspiring scientist, and an intellect. Doing research is a huge challenge for any scientist in Viet Nam, isn't it?”

Đây là cách viết đạt nhất và chuẩn nhất. Câu 1 là ok, khó sửa lại được. Còn câu 2, tôi nghĩ cách viết “Viet Nam” chỉ xuất hiện từ thời sau 1975, đặc biệt là mấy người ngoại giao ngoài Bắc muốn làm tài khôn dùng, và theo tôi biết không được nhiều người chấp nhận; cách viết được chấp nhận và phổ biến nhất vẫn là “Vietnam”. (Tôi nhất định trong đời mình sẽ không thay chữ đó theo kiểu của giới ngoại giao VN). Nên nhớ câu gốc có chữ yet nên mình không bỏ được ý này. Tôi nghĩ không cần “doing research”, mà chỉ “research” là ok. Ngoài ra, tôi nghĩ nên thay đổi chủ ngữ của câu văn để “nhà khoa học ở Việt Nam” đi trước còn research [là vấn đề] đi sau. Do đó, câu hai theo tôi là nên bỏ “isn’t it” và chỉ thay bằng một câu hỏi thôi cho gọn: “For a scientist in Vietnam, research is still a huge challenge?”

Cuong Kieu Em rat thich phan bai tap tieng Anh nay cua thay tren fb. Em xin dong gop mot giai phap a : Beside of an inspirer and intellectual, a university lecturer must be an active scientist. However, doing research in Vietname is a huge challenge.

Câu 1 thì ok, nhưng em để chủ ngữ “A university lecturer” ở phần giữa là một sai lầm chiến lược. Chiến lược là để người ta chú ý đến “A university lecturer” trước. Nếu “an inspirer” thì phải “an intellectual” chứ. Nhưng khởi đầu câu văn với một giới từ như “beside” là rất nguy hiểm, chưa am hiểu tiếng Anh, không nên mạo hiểm kiểu này.  Câu 2 thì chưa đạt theo ý ban đầu. Ý ban đầu người ta nói rõ là “a scientist”, còn câu của em thì chẳng thấy bóng dáng scientist đâu.

ULe 
1/ A university lecturer should be an active scientist,...
2/ It is really challenging for scientists to do research in Vietnam.

Hai câu này chưa đạt. Người ta muốn nói “must” nhưng em sửa thành “should” (nhẹ hơn). Thật ra, chữ active scientist chẳng biết dịch sang tiếng Việt là gì? Nhà khoa học tích cực? Nhà khoa học nào mà không tích cực? Trong tiếng Anh, active thường chỉ người tại chức để phân biệt với người nghỉ hưu.  Câu hai quên chữ yet, và chủ ngữ chưa đúng ý với câu văn ban đầu.

DK: A university lecturer should be an active scientist, a transmitter-of-the-fire, and an intellectual. At the first point, an active scientist is xxx, but it is still a big challenge to fulfill this xxx in Vietnamese universities as doing a research here (there) depending largely on z, y, z reasons.

Hm, không rõ em muốn nói gì. Hai câu này riêng lẻ, nhưng hình như em nhập lại thành một.

NVLong 
Câu 1: A university lecturer is expected as a dynamic scientist, a "missionary" and an intellectual
Câu 2: However becoming a scientist who can do serious research in Vietnam is still big challenge, isn't it?

Em dùng “is expected” tức nhẹ hơn “must” của câu văn gốc. Hm, chữ missionary hay hay! Nhưng vấn đề là chữ này có cái air tôn giáo và một nghĩa khác hơi trần tục. Thường, sau động từ expected trong ngữ cảnh này là “to be” chứ không phải “as”. Câu hai thì em hiểu đúng yet = still, nhưng ở đây không có chuyện “becoming a scientist” mà là “a scientist”. Vả lại câu văn quá cumbersome, vì chủ ngữ là “becoming a scientist who can do serious research in Vietnam” (tức là nói về người) nhưng ngay sau đó thì nói là “challenge”! Như vậy là không ổn.

NBDuc: [Q1]The active and inspired scientist, and an intellectual are the main characteristic of a university lecturer. [Q2] However, there is a big challenge in a university lecturer in Vietnam, isn’t there?

Câu 1 có vài vấn đề. Mạo từ “the” ở đây là sai vì chẳng có ai cụ thể cả. Không ai nói inspired scientist mà là inspiring scientist. Trước đó em nói 3 loại người, nhưng sau thì em viết là “are the main characteristic” là không được. Người sao là characteristic? (Nếu là characteristic thì phải số nhiều ở đây). Câu 2 thì không bám sát câu gốc của tác giả: người ta nói là scientist, nhưng em nói lecturer. Vào đầu là “there is”, nhưng sau đó thì “isn’t there”! Lại quên chữ yet trong câu văn gốc.

TN: My suggestions as follows:

1. As a member of the academic staff at umiversity, one should be both inspiring in teaching and active in doing research to upgrade the knowledge of their field.
2. Researchers conducting their studies in Vietnam may encounter a variety of difficulties that can discourage them from success.

Đáng lẽ phải viết là “My suggestions ARE as follows:”. Yêu cầu là làm câu văn cho gọn hơn, nhưng em lại làm cho nó dài hơn! Cái này phải giảm điểm :-). Câu 1 em quên phần intellectual :-). Vả lại, câu văn của em có vài lỗi văn phạm. Người ta nói “as a university academic staff” chứ không phải “as an academic staff at university”, nhưng ở đây không nói đến staff mà là lecturer. Câu 2 thì chưa đạt, vì em làm cho nó phức tạp hơn và đi ra ngoài ý nghĩa câu văn gốc và có vấn đề về cấu trúc từ ngữ. Câu văn gốc có nói “yet” mà nhiều em quên. Câu “discourage them from success” là không chuẩn, vì discourage from doing cái gì đó, chứ đâu có discourage them from thành công!

VN
Câu 1: “A university lecturer must be both an active scientist and an intellectual, as well as an inspirational person ”. Câu 2: “However, doing research for scientists in Viet Nam has yet remained challenging.”

Câu 1 nghe cũng được nhưng em làm dài thêm, nhưng khi yêu cầu là ngắn gọn hơn. Mấy chữ như as well as chỉ làm dài câu văn một cách không cần thiết. Chữ “person” nghe không mấy oách trong ngữ cảnh :-). Còn câu 2 thì ok về ý, nhưng em đổi chủ thể là  người (scientist in Vietnam) thành sự việc (Doing research). Dùng động từ “has” ở đây có lẽ chưa đúng ý tác giả vốn muốn nói “làm nghiên cứu ở VN vẫn là một thách thức lớn”. Đáng lẽ sau “doing research” phải có dấu phẩy. Nhưng dù như thế, câu văn vẫn luộm thuộm quá.

***

Bây giờ tôi sẽ tổng hợp và học từ đề nghị của các bạn, đặc biệt là từ Cuong Ton-That và Cô Nguyên Thuỷ, tôi đề nghị viết lại cho gọn hơn. Theo tôi, hai câu “An university lecturer must be an active scientist, the transmitter-of-the-fire, and an intellectual” và “But being a scientist, doing research in Viet Nam is yet a big challenge, isn’t it?” có thể viết gọn hơn như sau:

Câu 1 (đề nghị): “A good university lecturer is an inspiring scientist and a public intellectual.”

Tôi phân vân chữ “must” trong câu văn gốc, vì chữ này có ý nghĩa bắt buộc, như là ra lệnh.  Trong thực tế, “should” như LVU đề nghị có lẽ hợp lí hơn. Nhưng thật ra, câu văn này mang tính định nghĩa, và do đó tôi nghĩ “is” có lẽ là hợp lí nhất. Do đó, tôi thay đổi must thành is.

Tôi dùng chữ “good” (thoạt đầu định dùng “great”) để phân biệt với các giảng viên làng nhàng. Giảng viên bình thường có khi chẳng cần nghiên cứu. Chữ “active scientist” khó hiểu theo nghĩa tiếng Việt (chẳng lẽ là “nhà khoa học tích cực”?). Theo nghĩa tiếng Anh, active scientist là nhà khoa học vẫn còn tại chức, vẫn còn làm nghiên cứu, chứ không phải đã nghỉ hưu. Do đó, câu “a university lecturer must be an active scientist” là cực kì thừa! Tôi đề nghị bỏ chữ active.

Tôi tránh dùng chữ “fire transmitter” (và những chữ mang dấu ấn XHCN) vì người ta sẽ cảm thấy khó hiểu, và nó thường mang tính rhetoric – sáo ngữ. Là một phát biểu mang tính định nghĩa (tức nghiêm chỉnh) mà tự nhiên nhảy tót vào một chữ rhetoric thì nó cực kì vô duyên. Người Việt có lẽ quá quen nói “truyền lửa” rồi, và tưởng là chữ đó là hay ho, nhưng thật ra nó chẳng có nghĩa gì hay cả. Truyền lửa gì? Thật ra, một nhiệm vụ của giảng viên là truyền cảm hứng, tức là inspiration, cho sinh viên. Khi nói cảm hứng, tôi nghĩ đến cảm hứng về khoa học, và cảm hứng về cuộc sống của người trí thức.  Do đó, dùng inspiring scientist là chính xác và … sang. (Sang hơn là “truyền lửa”).

Tôi nghĩ đã là giảng viên đại học thì phải là nhà trí thức. Do đó tôi nghĩ câu phát biểu “A university lecturer must be … an intellectual” là hoàn toàn thừa. Nhưng vì đây một ý của tác giả, nên tôi giữ và thêm vào chữ public: public intellectual. Có nhiều loại trí thức, nhưng loại trí thức công cộng hay public intellectual theo tôi là trên một bậc loại trí thức thường. Public intellectual ở đây là những người được đào tạo về một chuyên ngành khoa học, là thành viên giảng dạy và nghiên cứu của một đại học, nhưng có khả năng diễn đạt trước công chúng về một vấn đề nào đó (có thể là ngoài chuyên ngành). Những người như Albert Eisntein, Noam Chomsky, Edward Said, EO Wilson, Paul Krugman, Bernard Lewis, v.v. hay ở VN những người như bác Hoàng Tuỵ, Nguyễn Minh Thuyết có thể xem là public intellectual. Một giảng viên đã là một intellectual, nhưng theo tôi một good lecturer phải là một public intellectual.

Câu 2 (đề nghị): “For a scientist in Vietnam, research is still a huge challenge?”

Câu gốc (“But being a scientist, doing research in Viet Nam is yet a big challenge, isn’t it?”), như tôi nói từ đầu, hơi khó hiểu.  Chữ “being a scientist” (là một nhà khoa học) rất chung chung nên không có ý nghĩa gì. “Là một nhà khoa học” khác với “Đối với một nhà khoa học” như Cô Nguyên Thuỷ viết chính xác “To a scientist”). Chữ “thách thức” là hợp lí với “đối với nhà khoa học” chứ không hợp lí với “là nhà khoa học”. Do đó, “being” phải loại bỏ ở đây.

Đối với các nhà khoa học việc làm nghiên cứu là hết sức bình thường vì đó là việc của họ.  Họ được trả lương hay được tài trợ để làm nghiên cứu. Nhưng ở VN đối với một nhà khoa học làm nghiên cứu vẫn còn là một thách thức lớn. (Thật ra, nói ngoài đề: tôi đã tham gia khá nhiều nghiên cứu ở VN, và thấy làm nghiên cứu bên nhà chẳng phải là thách thức lớn). Do đó, nếu chỉ nói “for a scientist” hay “to a scientist” thì chưa cụ thể; phải viết là “For a scientist in Vietnam” hay “To a scientist in Vietnam” thì cụ thể hơn.

Tôi không thích kiểu viết “isn’t it” vì thứ nhất nó có cái phong cách informal trong bài nói chuyện nghiêm chỉnh, và thứ hai nó không cần thiết. Chỉ cần một dấu hỏi “?” cuối câu thì ai cũng biết. Ngoài ra, chữ “yet” (lại một phong cách informal), đúng ra nên là “as yet”, làm cho câu văn khó hiểu. Vì thế tôi đổi thành still để ai cũng hiểu dễ dàng. Chữ big có thể ok, nhưng tôi thích chữ “huge” của TTCuong hơn vì nó có tính sang trọng :-).

Thật ra, tôi muốn viết lại là “For a scientist in Vietnam, conducting meaningful research is still a huge challenge?”, vì research thì ở VN ai cũng có thể làm được, nhưng “meaningful research” thì không dễ và không phải ai cũng làm được. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại có lẽ không cần thay đổi làm gì cho thêm phức tạp.

Qua hai ví dụ trên đây, có lẽ các bạn đã học thêm vài điều trong cách viết tiếng Anh. Vấn đề dĩ nhiên không phải là văn phạm, mà theo tôi quan trọng nhất là ý tưởng. Từ ý tưởng, chọn chữ cho thích hợp, chọn động từ cho ăn khớp, chọn bổ ngữ cho phù hợp với chủ ngữ (cái này dễ bị sao lãng).  Chẳng hạn như “To a scientist” và “Being a scientist” là rất khác nhau. Tôi có thể nói “là nhà khoa học, chúng ta phải có trách nhiệm với xã hội”, nhưng không ai nói “là nhà khoa học, làm nghiên cứu ở VN rất khó” cả. Nhưng tôi có thể nói “Đối với một nhà khoa học, làm nghiên cứu ở VN rất khó”. Chỉ “To” và “Being” mà dùng bổ nghĩa không thích hợp là hỏng câu văn.

Người Việt chúng ta thích thơ và ví von, và sở thích này nó len lỏi vào văn khoa học.  Một triết gia nổi tiếng (hình như là Nietzsche) từng nhận xét rằng người phương Đông lẫn lộn giữa thơ và triết. Lớn lên và trầm mình trong không gian thi ca của VN tôi cũng bị “nhiễm”. Nhớ độ 20 năm trước mấy bản thảo đầu tiên tôi nộp cho thầy xem, ổng đọc xong và mỉm cười nói kiểu mỉa mai: tao thấy văn của mày sao mà đậm chất thơ quá. Tôi hiểu ngay ổng chê mình là thiếu tính khoa học. Phải qua mấy chục lần bị chỉnh sửa tôi mới gột rửa được cái chất thơ trong các bài báo khoa học.

Do đó, tôi không ngạc nhiên khi đọc những bài báo, bài nói chuyện ở VN mang chất thơ và sáo. Tiêu biểu cho thói rhetoric này là “truyền lửa”, nó trở thành gần như là một khẩu hiệu. Nghĩ cho cùng, lửa rất nguy hiểm, ai đời lại đi truyền lửa?!  Giảng viên có thể nhảy nhót, vung tay múa chân, nhào lộn trên bụt giảng và người ta có khi xem đó là truyền lửa, nhưng nghĩ kĩ thì đó là đóng kịch cho vui chứ có truyền gì đâu. Tiếng Việt có chữ “truyền cảm hứng” rất hay, vậy sao không dùng nó? Có những chữ người Việt (sau 1975) quen nhưng khi dịch sang tiếng Anh là lúng túng ngay.  Những câu chữ như “sự nhạy cảm chính trị”, “nhiệt huyết cách mạng”, “vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa”, “nâng cao chất lượng hoạt động”, v.v. không phải dễ dịch sang tiếng Anh, hay dịch sang tiếng Anh mà chẳng ai hiểu. Khác “bộ lạc” và khác luồng tư tưởng nên rất khó thông cảm nhau. Có lẽ đã đến lúc phải loại bỏ những ví von, những câu chữ không có nghĩa ra khỏi các bài viết nghiêm túc.

Có lần trong một hội nghị ở Hà Nội, tôi so sánh viết văn với nghệ thuật nấu ăn. Trong viết văn, viết xong một câu văn, người viết phải đọc lại xem nó có chỉnh chu chưa, và chỉnh sửa, rồi đọc lại và chỉnh sửa cho đến khi hoàn chỉnh. Cũng giống y như người nấu bếp phải nêm nếm, cho mắm muối và gia vị cho đến khi món ăn ngon. Một bà người Úc chuyên dạy về viết văn trong kinh tế (thuộc trường Southern Cross) chủ toạ phiên họp rất thích cách so sánh này. Bà gặp tôi và tắm tắc khen, còn tôi thì không ngờ mình so sánh tuỳ hứng mà có người nói là hay! Nhưng nghĩ lại thì tôi thấy viết văn có thể xem như là một nghệ thuật. Đã là nghệ thuật, nó đòi hỏi người viết không chỉ suy nghĩ về ý nghĩa, mà còn cách chọn từ ngữ và sắp xếp câu chữ cho thích hợp. Qua 2 câu hỏi này, tôi hi vọng các bạn đã cảm nhận một phần cái khía cạnh nghệ thuật của viết văn.



Read more ...