Pages

Y Khoa và sai sót chết người

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013
Nhận những vụ "tai nạn" trong và ngoài bệnh viện gần đây, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn vài thông tin về những sai sót chết người trong y khoa. Đọc để biết đây là một ngành nghề rất dễ xảy ra sai sót. Vấn đề không phải là giấu diếm mà là tìm hiểu có hệ thống để giảm thiểu tai nạn. Người viết bài này từng đề nghị vài đồng nghiệp nghiên cứu về medical errors ở Việt Nam, nhưng ai cũng lắc đầu vì nói phi thực tế, không ai dám làm. Có lẽ chưa đến thời điểm để làm. Có lần tôi nghe một báo cáo trong một hội nghị khoa học cho biết tỉ lệ chết sau phẫu thuật thay khớp háng trong bệnh viện VN rất thấp (gần như 0), nhưng ở bệnh viện nước ngoài thì tỉ lệ này là khoảng 5% (ở bệnh viện Úc tỉ lệ cũng khoảng 5%). Có thể dựa vào đó mà nói rằng bệnh viện VN an toàn hơn bệnh viện Úc? Dĩ nhiên là không, vì khác biệt về văn hóa (văn hóa y khoa và văn hóa truyền thống) giữa hai môi trường. 


Bệnh viện là một môi trường đầy những rủi ro, bất trắc. Năm 1995, ông Willie King, 65 tuổi, được đưa vào Bệnh viện Công cộng thuộc trường Đại học Tampa (tiểu bang Florida) để giải phẫu chân trái; nhưng các bác sĩ đã cắt nhầm chân phải của ông. Ông King trở thành tàn tật suốt đời. Mới đây, một trường hợp nhầm lẫn tương tự như thế cũng ở Mĩ đã được báo chí phanh phui rầm rộ: đó là trường hợp của cụ ông Morson Tarason, 79 tuổi, được vào bệnh viện danh tiếng thuộc trường đại học Pennsylvania (tiểu bang Philadelphia) để giải phẫu chữa trị lá phổi bên trái; nhưng thay vì chữa trị lá phổi bị bệnh đó, các bác sĩ đã cắt nhầm lá phổi tốt bên phải! Cụ ông Tarason không hề hay biết gì. Cụ ông này may mắn hơn là còn sống sót sau hai lần giải phẫu, nhưng tuổi thọ của cụ chắc sẽ bị giảm và cuộc sống của cụ chắc sẽ khó khăn hơn.

Việt Nam cũng có nhiều câu chuyện tương tự. Quên gạc trong bụng bệnh nhân, đau chân phải mổ chân trái, cắt lầm quả thận, cho thuốc sai liều lượng, v.v. tất cả đều là những sai sót đáng tiếc, nhưng là một bi kịch rất thực tế trong ngành y bận rộn. Những sai sót này có khi chẳng có liên quan gì đến y đức như báo chí nói (lầm), mà chỉ là "nhân vô thập toàn" mà thôi. Trong cái bi kịch đó, ai cũng có thể là nạn nhân. Bác sĩ có thể thẳng thắng nhận lỗi về phần mình, mhưng không nên đổ lỗi cho bác sĩ, bởi vì vấn đề không phải là cá nhân, mà là qui trình hay hệ thống hoạt động trong bệnh viện mới chính là yếu tố gây ra tai nạn. Có lẽ công chúng kì vọng quá cao vào bác sĩ, nên khi sai sót xảy ra người ta cảm thấy thất vọng. Người ta quên rằng bác sĩ cũng là người bình thường, cũng sai sót trong phán xét, cũng cảm tính, cũng chủ quan, cũng thiếu kiến thức, v.v. chứ không phải là những superman. Nhìn như thế để thấy sai sót trong y khoa là điều khó tránh khỏi. 

Đối với phần đông công chúng, những trường hợp như trên đây, nếu mới nghe qua thì thật là lạ lùng, khó tin và khó hiểu. Lạ là vì một lỗi lầm như thế lại xảy ra trong ngành nghề có chức năng chính là cứu người, chữa trị người bị bệnh và làm dịu bớt những cơn đau thể xác và tinh thần, một ngành nghề hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản là "trước hết, không hại người" ("primum non nocere"). Khó tin và khó hiểu là vì nhầm lẫn như thế xảy ra ở những bệnh viện có tiếng, và sự việc nếu chỉ nghe qua thì cứ như chuyện đùa. Ấy thế mà những lỗi lầm tưởng như chuyện không tưởng này lại thường xảy ra trong bệnh viện trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta chưa có nghiên cứu về nhầm lẫn y khoa để rút ra những bài học kinh nghiệm, nhưng ở các nước Tây phương, đặc biệt là Mĩ, vấn đề này đã được nghiên cứu khá tường tận. 

Những thống kê nhức nhối

Không ai biết chính xác mỗi năm có bao nhiêu người bị thiệt mạng và thương tích do những nhầm lẫn y khoa gây ra. Nhưng, các nhà khoa học có thể ước đoán con số này. Theo một cuộc điều nghiên quan trọng trên hồ sơ bệnh lí của hơn 30 ngàn bệnh nhân được chọn một cách ngẩu nhiên trong 51 bệnh viện vào năm 1984 thuộc tiểu bang New York (Mĩ), nhóm nghiên cứu thuộc trường đại học Harvard do giáo sư Lucian Leape (1) dẫn đầu khám phá ra 3,7% bệnh nhân bị thương tích; trong số 3,7% này, có gần một phần ba là do cẩu thả trong khi điều trị và 70% là do lỗi lầm của các nhân viên y tế (bác sĩ, dược sĩ, y tá, v.v).

Dựa theo kết quả nghiên cứu trên, Viện Y khoa (Institute of Medicine), trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mĩ (National Academy of Sciences, USA) phỏng đoán rằng trên toàn nước Mĩ, hàng năm có khoảng 100.000 người Mĩ bị thiệt mạng vì những lỗi lầm liên quan tới điều trị trong bệnh viện. Nhưng theo báo cáo (năm 1999) của giáo sư Lucian Leape thuộc trường đại học Harvard, mỗi năm có đến 120 ngàn bệnh nhân kém may mắn chết vì lỗi lầm của giới y tế và nhà thương; trong số này, có khoảng 7 ngàn người bị chết vì những lỗi lầm về thuốc men. Chi phí hàng năm liên quan tới những trường hợp thương vong này được ước tính khoảng 8,8 tỷ đô la.

Thực ra, chẳng riêng gì ở Mĩ, lỗi lầm về y khoa cũng xảy ra ở các nước Âu châu và ngay cả Úc châu, một nước thường rất tự hào về an toàn y khoa trong mấy thập niên trước đây. Trong một cuộc nghiên cứu trên hơn 14.000 hồ sơ bệnh lí vào năm 1995 ở Úc (2), các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Newcastle ghi nhận tỉ lệ thương tật là khoảng 8% (tức còn cao hơn ở Mĩ là 3,7%!). Trong số 8% này, có đến phân nửa được xem là do nhầm lẫn trong chẩn đoán, điều trị và giải phẫu, tức những nguyên nhân có thể tránh được. Con số này cũng có nghĩa là hàng năm có khoảng 18.000 người bị chết và 50.000 người bị thương tật vĩnh viễn vì những sai sót trong bệnh viện (dân số Úc lúc đó là 17 triệu).

Bộ phận nào trong bệnh viện là nơi nguy hiểm nhất? Theo nghiên cứu của giáo sư Lucian Leape (Harvard, Mĩ) và bác sĩ Wilson (Úc), khoảng 40% tới 50% các tai nạn y khoa xảy ra ở phòng giải phẫu. Nơi "nguy hiểm" thứ hai là những khu điều trị (tức wards), chiếm 27% trong tổng số tai nạn. Những khu điều trị có kĩ thuật cao như khu khẩn cấp (emergency department hay ED, intensive care unit hay ICU) và khu sinh sản cũng là những nơi mà sai sót có thể xảy ra, nhưng ở một tỉ lệ thấp hơn (khoảng 3% tới 5%).

Trong khi những lỗi lầm y khoa trong bệnh viện được điều tra tương đối có hệ thống, nhưng những lỗi lầm ở ngoài bệnh viện như trong các phòng mạch bác sĩ, các nhà dưỡng lão (nursing homes), v.v. lại ít khi được đề cập và nghiên cứu. Trong bài tường trình của bác sĩ Wilson, khoảng 8% các tai nạn y khoa xảy ra ở phòng mạch bác sĩ, khoảng 2-3% xảy ra tại nhà của bệnh nhân, và 1-2% tại các nhà dưỡng lão. Bệnh nhân càng lớn tuổi càng có nguy cơ bị tai nạn trong chữa trị, có lẽ vì người già thường có nhiều bệnh tật cùng một lúc hơn người trẻ tuổi. Vì số lượng bệnh nhân đến khám tại các phòng mạch tư nhiều hơn trong bệnh viện, người ta đoán rằng số tai nạn và thương tích còn nhiều hơn con số mà các nhà nghiên cứu đã công bố.

Có thể nói con số tai nạn y khoa và những hậu quả chết người do sự sai sót trong bệnh viện gây ra rất lớn; ấy thế mà rất ít người trong cộng đồng hay biết đến. Có nhiều trường hợp lỗi lầm không hề được công bố trên các báo chí công cộng, mà chỉ được giải quyết qua điều đình giữa bệnh viện hay bác sĩ và nạn nhân. Nếu một hãng hàng không có tỉ lệ tai nạn chỉ 0,1% (tức còn thấp hơn gần 20 lần so với tai nạn y khoa) thì công chúng sẽ rất phẩn nộ và đòi hỏi phải có cải tiến lề lối quản lí và làm việc. Nhưng rất "may mắn" là trong y khoa, tai nạn chỉ xảy ra một cách dần dà (thay vì ào ạt cùng một lúc cả hàng trăm mạng người như tai nạn máy bay), nên công chúng vẫn để yên cho giới y khoa, và giới y khoa vẫn im lặng và im lặng. 

Nhiều bài báo nghiên cứu về nhầm lẫn trong giải phẫu, điều trị bị chủ bút các tờ tạp chí y khoa uy tín ém nhẹm, không cho công bố, vì một phần sợ bị rắc rối trước pháp luật và một phần do truyền thống bênh vực nhau trong y giới (không muốn làm phiền đến đồng nghiệp). Số lượng nghiên cứu được công bố cũng rất ít, và hầu như giới có thẩm quyền vẫn không chịu tìm cách giải quyết vấn đề cho tới nơi tới chốn. Nhưng sự dễ dãi của công chúng cũng có giới hạn. Không thể đứng ngoài mục kích tình trạng này mãi được nữa, tháng 12 năm 1999, tổng thống Mĩ, Bill Clinton, đã phải lên tiếng về vấn đề này, và cho thành lập một ủy ban đặc biệt trực thuộc phó tổng thống để nghiên cứu và tìm cách giảm thiểu những "tai nạn" y khoa chết người này.

Phân tích nhầm lẫn y khoa

Y học không phải là một môn khoa học chính xác như toán học. Mối quan hệ khẳng định (deterministic relationship) kiểu như "cho một yếu tố X, ta có thể xác định kết quả của Y" ít khi nào, nếu không muốn nói là không, tồn tại trong y khoa. Hầu hết các loại bệnh kinh niên có bệnh lí rất phức tạp, vì có nhiều (có khi quá nhiều) nguyên nhân gây ra bệnh. Tìm ra nguyên nhân chính xác và cơ chế vận hành, liên đới của chúng không phải là một chuyện dễ dàng. Trong nhiều trường hợp, khoa học hiện đại vẫn phải bó tay trước sự phức tạp này. Những bệnh phức tạp như loãng xương, ung thư, viêm khớp xương, v.v., mặc dù hàng tỉ đô la đã được đổ vào trong nghiên cứu khoa học, nhưng y khoa vẫn chưa chinh phục hoàn toàn hay thậm chí hiểu hết căn nguyên, nguồn cội của chúng. Do đó, mỗi khi đọc kĩ những sách giáo khoa về y khoa, người đọc sẽ thường xuyên thấy cụm từ đại khái như "nguyên nhân chính xác của căn bệnh này chưa rõ ràng" (e.g. "the causes of the disease are not definitely known" hay "The pathogenesis of the disease remains unknown"). Do đó, lầm lẫn, sai sót trong y khoa, là những điều không thể tránh khỏi. Mỗi chẩn đoán đều có một sai số nhất định (không lớn thì nhỏ), và những sai số xảy ra ở nhiều giai đoạn trong quá trình chẩn đoán và điều trị.

Trong mỗi quyết định y khoa đều có một phần đúng và một phần sai. Phần đúng là dựa vào hệ thống kiến thức được thu thập qua thí nghiệm và phân tích khoa học. Phần sai có thể bao gồm những yếu tố có tính ngẫu nhiên, nằm ngoài sự hiểu biết, tiên đoán, khả năng và sự kiểm soát của người chữa bệnh. Thực ra, ngay cả phần đúng cũng có yếu tố sai sót trong đó, vì ngay cả các thí nghiệm khoa học cũng không thoát khỏi lỗi lầm và sơ suất. Mà chẳng riêng gì con người, ngay cả các thiết bị máy móc quang tuyến hiện đại trị giá hàng triệu đô la cũng có một mức độ sai sót ngẫu nhiên nhất định. Mức độ sai sót trong thử nghiệm sinh hóa học dựa trên máu hay nước tiểu còn cao hơn. Chẳng hạn như trong việc xác định mức độ mỡ trong máu (cholesterol level), độ sai sót do kỹ thuật đo lường có thể lên đến 20%. Bệnh nhân có thể bị chẩn đoán sai một cách rất dễ dàng, nếu chỉ dựa vào kết quả của một thử nghiệm. Thành ra, trong mỗi chẩn đoán đều chứa một sự bất định (uncertainty).

Tìm ra nguyên nhân và chẩn đoán bệnh đã khó, nhưng tìm ra cách chữa trị tối ưu lại càng khó hơn. Trong nhiều bệnh, có hai phương thức chữa trị căn bản: phẫu thuật và dùng thuốc. Trong mỗi phương pháp chữa trị đều gắn liền với một sự rủi ro, không nhỏ thì lớn. Trong nhiều trường hợp phẩu thuật, sự nhiễm trùng và biến chứng thường rất xảy ra. Trong một vài trường hợp (như aneurysm), giải phẫu, dù rất an toàn trên lí thuyết, cũng vẫn có những rủi ro không thể tiên đoán trước được, và mỗi rủi ro đều có một xác suất tử vong. Phần đông các loại thuốc dùng để điều trị (treat hay relieve), chứ không có khả năng chữa khỏi (cure), bệnh. Và dù điều trị hay chữa, mỗi loại thuốc đều gây ra một vài tác hại. Có khi sự tác hại chỉ được khám phá ra sau vài mươi năm sử dụng. Một trong những loại thuốc được xem là "thần dược" vào những thập niên 70s và 80s là oestrogen hay HRT (hormone replacement therapy), thường được dùng điều trị những bệnh như loãng xương cho phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Nhưng sau nhiều năm nghiên cứu và theo dõi, ngày nay, người ta đã bắt đầu nghi ngờ tính "thần dược" của thuốc này, vì nó có thể tăng xác suất mang bệnh ung thư vú. Rất hiếm, nếu không muốn nói là không bao giờ có, thần dược.

Tương tự, phẫu thuật cũng hàm chứa những rủi ro. Thật ra, không có một thuật giải phẫu nào được xem là an toàn tuyệt đối cả. Cái bất định trong giải phẫu là có khi bác sĩ không đoán trước được biến chứng cho bệnh nhân mình. Tai nạn trong giải phẫu mà chúng ta tìm cách tránh thường là những may rủi, và do đó, không thể xác định bằng con số hay đo lường được. Những tai nạn này chỉ là những tình thế mà trong một môi trường nào đó có thể dẫn đến thiệt hại.

Vấn đề tổ chức

Một trong những nghịch lí trong y học ngày nay là y khoa càng ngày càng hiểu nhiều về bệnh lí và cách chữa trị, nhưng lại không biết nhiều về cách tự chữa lấy nhầm lẫn của chính mình, mà phải cần cố vấn của giới "ngoại đạo". Theo giới tâm lí học chuyên nghiên cứu về lỗi lầm của con người, có hai quan điểm về lỗi lầm: cá nhân và tổ chức.

Quan điểm cá nhân chú trọng vào cá nhân (bác sĩ, nhà giải phẫu, y tá, dược sĩ, v.v.) và cho rằng lỗi lầm là do sự sai lệch trong quá trình suy tính, như lãng quên, thiếu chú ý, thiếu động cơ thúc đẩy, bất cẩn, cẩu thả, và liều lĩnh. Cách làm giảm những hành động này, do đó, thường tập trung vào việc trừng phạt (cảnh cáo, cách chức kiện cáo, v.v.). Nói cho cùng, người ta thích khiển trách, đổ thừa cho nhau, vì việc làm đó thường mang lại cho họ một sự thỏa mãn cá nhân. Anh phạm lỗi, tôi không phạm lỗi; suy ra, tôi là người tốt, giỏi hơn anh. Vì tính đơn giản của nó, quan điểm cá nhân trên rất phổ biến trong mọi ngành nghề, kể cả y khoa, rất lâu đời, thậm chí đã trở thành truyền thống. Thông thường, khi phân tích những lỗi lầm y khoa, người ta thường chú trọng vào cá nhân hay một nhóm cộng sự viên có dính dáng vào việc chăm sóc nạn nhân, mà ít khi nào để ý tới cách vận hành của các bộ phận chuyên môn trong bệnh viện. Cách làm này thường dựa vào sự kiểm tra tất cả các dữ kiện, kể cả phương pháp chữa trị, và qua đó mà xác định xem một cách làm khác có thể đưa đến một kết quả khác hay không.

Nhưng quan điểm này lại “xung khắc” với một quan điểm có tính truyền thống trong y khoa, đó là nhầm lẫn là tội lỗi. Trong các trường y, sinh viên thường được dạy không được nhầm lẫn, vì giới y khoa Tây phương cho rằng nhầm lẫn là tội lỗi, là sự thiếu sót về đạo đức nghề nghiệp. Quan điểm này đã thấm sâu vào giới y khoa một cách thâm căn cố đế, đến nổi người ta ít khi nào (xin nhấn mạnh: "ít" chứ không phải là "không") nhắc tới lỗi lầm. Điều này cũng có nghĩa là người thầy thuốc không muốn, hay không có can đảm, nói về nhầm lẫn của mình hay đồng nghiệp, bởi vì nó quá đau lòng. Cố nhiên, đó là một quan niệm rất ư là thụ động, sai lầm và có khi nguy hiểm.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu cho thấy lề lối tổ chức bệnh viện có ảnh hưởng một cách sâu xa vào thái độ làm việc của cá nhân. Từ đó dẫn đến một quan điểm mới rằng, lỗi lầm là một điều không thể tránh khỏi trong tất cả các hoạt động của con người; lỗi lầm, do đó, được xem là một hậu quả [thay vì nguyên nhân], xuất phát không hẳn hoàn toàn từ con người mà là từ hệ thống tổ chức. Vì thế, theo quan điểm này, khó mà thay đổi điều kiện con người (tức biến con người thành một cái máy), và cách giảm lỗi lầm hữu hiệu nhất là thay đổi guồng máy tổ chức. Vì thế, muốn thay đổi hệ thống chăm sóc, thay vì chú trọng vào việc tìm lỗi phải từ cá nhân, các nhà nghiên cứu lâm sàng đang tìm cách sửa đổi lề lối tổ chức và vận hành của các bộ phận có quan hệ tới việc chăm sóc, chữa trị các bệnh nhân với bệnh nặng và khẩn cấp.

Bệnh viện ngày nay đã dần dần biến thành những trung tâm cấp cứu, chuyên chữa trị những bệnh ngặt nghèo. Điều này có nghĩa là bệnh nhân nhập viện thường ở trong một tình trạng nguy kịch và nguy cơ bị tử vong cũng cao hơn các nơi khác. Trong những trường hợp khẩn cấp, kinh nghiệm cho thấy những dấu hiệu lâm sàng quan trọng có liên hệ đến tính mạng bệnh nhân như sự suy yếu của hệ thống hô hấp, tuần hoàn có khi bị bỏ lơ , suy diễn sai, hay không được quản lí tới nơi tới chốn bởi bác sĩ và y tá. Theo một nghiên cứu vào thập niên 80s, có đến 60% tới 84% trường hợp bệnh nhân bị ngừng tim (cardiac arrest) đã có những dấu hiệu suy giảm về áp huyết, hệ thống hô hấp, và thậm chí hôn mê trước đó khoảng 8 giờ, nhưng lại không được quan tâm đúng mức và không có biện pháp gì để đối phó với tình hình nguy kịch đó. Nói một cách khác, có đến 60% tới 80% trường hợp ngừng tim có thể cứu được nếu nhân viên y tế theo dõi và có biện pháp cấp cứu kịp thời. Điều này nói lên sự thiếu nhịp nhàng, thiếu tổ chức trong các bệnh viện, mà đặc biệt là ở các khu cấp cứu.

Nhưng thay đổi hệ thống làm việc trong một tổ chức đòi hỏi phải có một sự hợp tác giữa các thành viên làm việc trong tổ chức đó. Trong giới y khoa, mà đặc biệt là giới giải phẫu, quan niệm phân chia đẳng cấp còn rất nặng nề và cứng nhắc. Khi được hỏi "Trong một nhóm làm việc, các thành viên cấp thấp không nên chất vấn các thành viên cấp cao", khoảng 25% các nhà giải phẫu dồng ý, trong khi đó chỉ 3% các bác sĩ chuyên khoa và 2% các phi công trưởng đồng ý. So sánh với các phi công trưởng, các nhà giải phẫu cũng là những người ít khi chịu nhìn nhận mình bị căng thẳng (stress) trong làm việc. Theo một nghiên cứu tâm lí, có đến 70% bác sĩ giải phẫu không tự nhận mình bị căng thẳng, so với 26% trong giới phi công. Nên nhớ là khoảng phân nửa các tai nạn do nhầm lẫn trong y khoa xảy ra tại các phòng giải phẫu (3).

So sánh để cải tiến

Trong một xã hội hiện đại, trong đó mọi thành viên, dù muốn hay không muốn, phải tùy thuộc lẫn nhau để tồn tại. Trong một hàm số đời sống phức tạp đó, sự sai sót, rủi ro ngẫu nhiên là điều khó tránh khỏi, và nhiều khi sự việc không xảy ra như ta tiên đoán hay dự định. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Vấn đề không phải là tìm cách tránh những rủi ro này (vì ta không thể nào tránh khỏi), nhưng phải học cách sống với hiểm nguy một cách sáng suốt và thông cảm.

Một khi tai nạn xảy ra, vấn đề cũng không phải là tìm thủ phạm để đổ lỗi cho nhau. Lỗi là lỗi của hệ thống, của tổ chức, mà trong đó cá nhân bác sĩ chỉ là một thành viên. Do đó, điều quan trọng bậc nhất trong khi xem xét nhầm lẫn y khoa là phải quán triệt rằng hệ thống y khoa và các qui trình liên quan, nhất là trong giải phẫu, mới là cội nguồn của tai nạn và nhầm lẫn, chứ không phải cá nhân.

Do đó, để khắc phục những nhầm lẫn y khoa và nâng cao chất lượng chăm sóc, mấu chốt không phải là khiển trách cá nhân, mà là cải thiện tổ chức. Một cách khắc phục nhầm lẫn là tự đo lường chất lượng. Điều này có nghĩa là các cơ quan chức năng cần phải thường xuyên thu thập dữ kiện, phân tích, so sánh chất lượng chăm sóc giữa các bệnh viện và trung tâm điều trị. Ở nước ta, chưa có những nghiên cứu so sánh như thế, nhưng tại Mĩ, có nhiều cơ quan chuyên nghiên cứu những yếu tố dẫn đến nhầm lẫn, và qua đó tìm cách nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân và giảm thiểu nhầm lẫn trong bệnh viện. Ở Mĩ thậm chí còn có website cung cấp thông tin so sánh chất lượng chăm sóc giữa các trung tâm y tế và bác sĩ. Kinh nghiệm từ các nghiên cứu này cho thấy một cách nhất quán là qua các so sánh như thế sẽ dẫn đến cải tiến qui trình làm việc và kết quả sau cùng là nâng cao chất lượng chăm sóc cho bệnh nhân.

Mỗi một tai nạn thường cho chúng ta những bài học. Hi vọng rằng qua bi kịch vừa qua, chúng ta sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm để xét lại qui trình làm việc. Không thể duy trì một tình trạng bất biến được.

Read more ...

Phẫu thuật thẩm mĩ và lựa chọn cái đẹp

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013
Vụ một nữ khách hàng giải phẫu thẩm mĩ bị tai biến dẫn đến tử vong và bị bác sĩ phi tang thi thể đang gây ra nhiều luồng dư luận nóng bỏng trong công chúng. Theo tôi, sự việc là một nhắc nhở về rủi ro của kĩ nghệ làm đẹp và những vấn đề đạo đức đằng sau kĩ nghệ này. Xin giới thiệu một vài ý kiến của tôi trên Tuần Việt Nam. Đây là bản gốc, còn bản trên TVN thì đã biên tập cho câu văn ngắn hơn.



Làm đẹp là một kĩ nghệ đang phát triển rất nhanh trên khắp thế giới. Năm 1996, cứ mỗi 150 người thì có một người tìm đến giải phẫu thẩm mĩ. Theo một thống kê của Hội phẫu thuật thẩm mĩ (Mĩ) chỉ riêng năm 2012 đã có đến 12.6 triệu ca phẫu thuật làm đẹp, và con số này tăng 5% so với năm trước. Những ca phẫu thuật này bao gồm nâng ngực (nữ), nâng mũi, cắt mí mắt, cang da, hút mỡ, căng da mặt, v.v. Thị trường làm đẹp ở Mĩ đã lên đến 20 tỉ USD. Ở Á châu, kĩ nghệ làm đẹp cũng phát triển không kém. Số ca phẫu thuật thẩm mĩ ở China hiện nay đứng hành thứ 3 trên thế giới. Nhật và Hàn Quốc cũng là những nước có kĩ nghệ làm đẹp phát triển chẳng thua kém gì so với các nước Âu Mĩ.

Ở Việt Nam, tuy không có con số thống kê cụ thể, nhưng nhìn qua các cơ sở làm đẹp tại các thành phố lớn, thì cũng có thể đoán rằng kĩ nghệ làm đẹp ở Việt Nam đang “tăng trưởng một cách thần kì”. Chỉ riêng Sài Gòn, mỗi năm ước tính có đến 100,000 khách hàng đến giải phẫu thẩm mĩ các loại, trong số đó có khoảng 6500 nữ nâng ngực. Sự tăng trưởng này song song với phát triển kinh tế có lẽ xuất phát từ nhu cầu làm đẹp của nữ giới, những người muốn có sắc diện giông giống như phụ nữ Hàn Quốc hay Âu Mĩ. Thái Lan là nước thu hút nhiều khách hàng làm đẹp trên thế giới vì giá tương đối rẻ (chỉ bằng 70% giá ở các nước Âu Mĩ) và trình độ kĩ thuật cũng chẳng kém các nước tiên tiến trên thế giới.

Rủi ro từ phẫu thuật thẩm mĩ

Nhưng giải phẫu thẩm mĩ là một can thiệp mang tính “xâm phạm” và có khi nguy hiểm. Một số biến chứng hậu phẫu thuật như nhiễm trùng, mất máu, máu tụ ở gan, tổn thương đến não, tê liệt cơ, đột quị, thậm chí tử vong có thể xảy ra khá thường xuyên. Có nhiều trường hợp sau phẫu thuật cơ phận trở nên mất cân đối hay mang thẹo suốt đời. Ở Việt Nam vì thiếu nghiên cứu và kiểm soát nên không có những số liệu về tai biến y khoa sau phẫu thuật thẩm mĩ. Nhưng những câu chuyện lưu truyền về “tiền mất tật mang” và “lợn lành thành lợn què” khá phổ biến.

Nguy cơ lớn nhất liên quan đến giải phẫu thẩm mĩ là tử vong. Một nghiên cứu ở Mĩ trên 1200 bác sĩ thẩm mĩ cho thấy tỉ lệ tử vong từ phẫu thuật hút mỡ bụng là 1 trên 5000. Khoảng 3 năm trước, một ca sĩ người China 24 tuổi bị chết trong khi được phẫu thuật thẩm mĩ. Tuần vừa qua, vụ một nữ khách hàng thẩm mĩ ở Hà Nội bị tai biến dẫn đến tử vong một lần nữa nhắc nhở công chúng rằng làm đẹp cũng có rủi ro tử vong.

Những rủi ro và nguy cơ tử vong của phẫu thuật thẩm mĩ đã trở nên mối bận tâm của giới y khoa. Các cơ sở làm đẹp quảng cáo rầm rộ về những thành tựu tuyệt vời của phẫu thuật mà không đề cập đến rủi ro trong hay sau phẫu thuật. Điều này rất lạ lùng vì phẫu thuật thẩm mĩ được thực hiện trên người bình thường (chứ không phải bệnh nhân), đáng lẽ kĩ nghệ này phải được kiểm soát chặt chẽ, nhưng trong thực tế thì rất lỏng lẻo. Ngày nay, ở một số nơi, ai cũng có thể hành nghề giải phẫu. Báo chí mới tường thuật một trường hợp tử vong vì giải phẫu mí mắt mà nhà giải phẫu là một bác sĩ về mắt! Thậm chí, có nha sĩ tiến hành những ca giải phẫu thay tóc! Trường hợp vị bác sĩ ở Hà Nội chưa có giấy phép hành nghề phẫu thuật thẩm mĩ cũng nằm trong xu hướng chung về sự lỏng lẻo trong quản lí kĩ nghệ này.

Đã có kêu gọi hạn chế, thậm chí cấm, các quảng cáo về giải phẫu thẩm mĩ. Trong khi các ngành nghề phẫu thuật chữa bệnh và thuốc điều trị không được phép quảng cáo thì ngành phẫu thuật thẩm mĩ được quảng cáo ở nhiều nước, kể cả Việt Nam. Quảng cáo kĩ nghệ làm đẹp có thể hợp pháp nhưng vấn đề đạo đức thì có thể cần bàn thêm. Cần nói thêm rằng phẫu thuật thẩm mĩ được thực hiện trên người bình thường (không mắc bệnh), và đó là một điều có thể nói là … lạ lùng. Một bác sĩ phẫu thuật thẩm mĩ từng viết rằng "Thật là kinh ngạc khi chúng ta được phép mổ xẻ trên những người bình thường. Ý tưởng được mổ trên người hoàn toàn bình thường quả là một đặc quyền khó tin".

Lựa chọn chuẩn thẩm mĩ

Cả hai người, cô ca sĩ China và chị khách hàng ở Hà Nội, thực ra đều thuộc vào nhóm những người “xinh gái”. Ấy thế mà họ vẫn tự nguyện tìm đến phẫu thuật để làm xinh đẹp hơn. Lựa chọn của họ làm nhiều nhà xã hội học bận tâm và đặt câu hỏi tại sao: tại sao phụ nữ Á châu sẵn sàng hi sinh tiền của và chấp nhận nguy cơ biến chứng để làm đẹp. Trong xã hội ngày nay, rất hiếm có một người nào hài lòng với thân thể của chính mình. Hầu như trong mỗi chúng ta đều, không nhiều thì ít, không hài lòng với thể diện của chính mình. Có những người ăn không ngon ngủ không yên vì cái tai vểnh cao quá, cái mũi quá thấp, hay bộ ngực còn “khiêm tốn”, v.v. Một số cảm thấy không hài lòng chỉ đơn giản vì là đối tượng dè bỉu của người khác.

Những tì vết phía ngoài cơ thể có khi là một yếu tố có thể làm cho người ta không hạnh phúc, và là rào cản trong giao tế xã hội. Trong một xã hội hiện đại, nhiều khi chúng ta được đánh giá qua ấn tượng về cơ thể của chúng ta mà người khác tiếp nhận. Do đó, giải phẫu thẩm mĩ có thể xem như một cách thức chăm sóc nhu cầu của cơ thể con người. Trong thực tế, cái đường ranh phân biệt giữa giải phẫu thẩm mĩ và giải phẫu tái thiết càng ngày càng khó nhận ra, đặc biệt là khi các nhà giải phẫu mô tả công việc của họ như là “chữa trị” cái phần tâm thần qua việc điều chỉnh cơ thể.

Nhưng những quảng bá về giải phẫu thẩm mĩ cũng cần phải được nhìn qua một lăng kính khác về văn hoá. Những người làm đẹp hay làm trong kĩ nghệ này thường nói rằng “không có phụ nữ xấu, chỉ có phụ nữ không biết làm đẹp”. Câu này có thể đúng một phần (về trang điển), nhưng vấn đề lớn hơn là ở chữ “làm đẹp”. Đẹp theo chuẩn mực nào, và ai là người đặt ra chuẩn mực về cái đẹp. Tác giả của Genesis viết "Chúa tạo ra loài người theo hình ảnh của Ngài," còn Thánh Paul thì hỏi "thể xác của bạn là một ngôi đền của Chúa?" Chúa ở đây là theo hình tượng phương Tây.

Ngày nay, một số đông phụ nữ, có thể nói không ngoa rằng phần lớn phụ nữ Việt Nam ngày nay lấy cái chuẩn đẹp là người Âu Mĩ. Một làn da trắng, má lúm đồng tiền, cái mũi cao, bộ ngực nở nang, v.v. là những đặc điểm nhiều phụ nữ ước mơ có được. Do đó, sự khát khao vượt qua, tự nó, được bắt nguồn từ sự thống trị của một lí tưởng thẩm mĩ đang thịnh hành ở Âu châu. Đó là cái cằm của thần vệ nữ Venus, đôi mắt của Fountainbleu Diana, môi của Europa, mũi của Psyche, và lông mày của Mona Lisa. Điều này cũng giải thích tại sao phụ nữ Á đông sống trong các xã hội Tây phương có xu hướng nhuộm tóc thành màu vàng, để tự đồng hóa mình với lí tưởng đẹp của phụ nữ bản xứ.

Một khi đã xoá bỏ được những dị biệt chủng tộc về cái đẹp, người ta suy nghĩ đến việc thay đổi những cơ phận khác trong cơ thể để gợi cảm và chống lại lão hóa. Hitler và Mussolini từng ra lệnh giải phẫu thẩm mĩ cho lính để nâng cao sức khỏe, kể cả sửa mí mắt. Một nghệ sĩ nổi tiếng người Pháp tê là Orlan đã từng đi giải phẫu ít nhất là 10 lần để theo đuổi cái lí tưởng mà bà gọi là “Sự tái sinh của Thánh Orlan”. Đàn ông cũng như phụ nữ liên tục tìm đến giải phẫu thẩm mĩ để tìm đến một sự hoàn hảo. Một kì giải phẫu lần này sẽ dẫn đến một kì giải phẫu kế tiếp, và kế tiếp. Và, trong xu hướng khách hàng giải phẫu càng ngày càng trẻ, chu kì giải phẫu thẩm mĩ sẽ còn kéo dài và nhiều hơn trong tương lai.

Với cái giá khá đắt của giải phẫu thẩm mĩ, cơ thể con người dần dần trở thành, không phải như là một món quà mầu nhiệm, nhưng là một công trình, một dự án đầy thử thách cho kĩ nghệ làm đẹp. Giải phẫu thẩm mĩ có thể là một món quà diệu kì của khoa học, nhưng món quà đó cần phải được đặt trong lí tưởng thẩm mĩ và bối cảnh văn hóa của một dân tộc, hơn là một sản phẩm lai căng của sự đầu hàng trước một văn hóa ngoại lai.


Read more ...

XAYABURI một năm sau: Don Sahong con đập dòng chính thứ 2 của Lào

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013
Lời dẫn nhập: Xin trân trọng giới thiệu một bài viết mới của Bs Ngô Thế Vinh về con đập mới trên sông Mekong thuộc giang phận của Lào. Có lẽ nhiều bạn không mấy quan tâm đến những con đập dọc theo thượng nguồn sông Mekong, và đó là một thiếu sót lớn. Có thể nói không ngoa rằng sự sống và tồn tại của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phụ thuộc vào con sông Mekong. Khi con sông này bị các nước ở thượng nguồn như China, hay gần nhất là Lào, xây những con đập lớn thì cũng có nghĩa là họ đang chi phối (thậm chí kiểm soát) nguồn sống của hơn 15 triệu dân vùng ĐBSCL. Trong thời gian gần đây, cùng với những ảnh hưởng của biến đối khí hậu, những con đập này đã "góp phần" làm thay đổi môi sinh theo chiều hướng xấu đi ở vùng ĐBSCL. Chúng ta phải quan tâm và lên tiếng khi cần thiết, và bài này là một trong những tiếng nói rất cần thiết đó. Xin hân hạnh giới thiệu cùng các bạn. NVT 

XAYABURI một năm sau: 
Don Sahong con đập dòng chính thứ 2 của Lào 
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
NGÔ THẾ VINH
“Sản xuất lúa gạo Đồng Bằng Sông Cửu Long bị đe dọa hơn nữa do xây con đập thứ hai Don Sahong ở Nam Lào. Con đập chắn ngang dòng chính Mekong ngay trước khi đổ vào vùng Thác Khone, sẽ làm giảm dòng chảy, gây nguy hại cho khu bảo tồn Ramsar Siphadone, cho mùa màng và ngư nghiệp dưới nguồn. Chúng tôi đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các vùng Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ lúa mùa khô nơi ĐBSCL đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm mặn tiến sâu vào đất liền xa tới 80 km và gây tổn hại cho mùa màng. Chúng tôi kêu gọi chính phủ Lào và các nhà đầu tư Mã Lai hãy tự tiết chế không gây tác hại thêm cho dòng chính sông Mekong nhằm bảo vệ môi sinh và cư dân nơi hạ nguồn.” [26-10-2013] Gs. Võ Tòng Xuân,  Nguyên Viện trưởng Đại Học An Giang.      
DON SAHONG CON DOMINO THỨ HAI
      Chỉ mới 13 tháng sau, không lâu sau lễ động thổ con đập Xayaburi 1,260 MW ngày 07/ 11/ 2012, [3] Lào đã tiến xa thêm một bước nữa, nhanh hơn dự kiến khi quyết định xây con đập Don Sahong 260 MW gây rất nhiều tranh cãi.  Ngày 3 tháng 10, 2013, chính phủ Lào thông báo cho MRC về quyết định xây con đập dòng chính thứ hai: Don Sahong, là một con đập-dòng-chảy / run-of-river dam nằm trong vùng Thác Khone / Siphadone thuộc tỉnh Champasak, Nam Lào chỉ cách biên giới Cam Bốt 2 km. Lào chưa công khai đưa ra một đồ án chính thức / project’s final design và chi tiết về con đập Don Sahong. Nhưng sơ khởi chỉ được biết con đập cao 30m, có chiều ngang rộng 100m, trụ trên suốt chiều dài 5km của hẻm nước /water channel Hou Sahong. [5]
      Và cũng chưa cần biết có đạt được sự chuẩn thuận của các quốc gia Mekong trên quy mô vùng hay không, nhưng chính phủ Lào đã  xác định công trình xây dựng đập Don Sahong sẽ được khởi công trong tháng tới (11/ 2013), dự trù hoàn tất và hoạt động phát điện vào tháng 05/ 2018. Toàn lượng điện sẽ được bán cho công ty điện lực nhà nước Lào (EDL/ Electricité du Laos). [5]
      Milton Osborne, tác giả cuốn sách The Mekong – Turbulent Past, Uncertain Future, nhận ra điều khá bất thường là Lào chỉ thông báo cho Thái Lan và Việt Nam nhưng lại không thông báo cho Cam Bốt là một quốc gia ngay kế cận, về ý định xây con đập Don Sahong; cũng như với Xayaburi, sự thông báo dĩ nhiên bao giờ cũng kèm theo kèm theo một trấn an rất chung chung là “con đập không ảnh hưởng gì tới khúc sông hạ nguồn.”
      Đây phải được coi là một hành xử rất thiếu sót của chính phủ Lào vì theo quy định của MRC 1995, trước khi đi tới một quyết định như thế, Lào cần phải tham khảo với từng quốc gia thành viên MRC trước khi có một hành động có thể gây phương hại tới quyền lợi của nước láng giềng. [6]
      Dự án đập Don Sahong không chỉ thiếu giai đoạn Tham-vấn-trước/ Prior Consultation, mà nghiêm trọng hơn nữa là thiếu cả một nghiên cứu độc lập khoa học và khả tín về ảnh hưởng tác động môi trường của con đập.

HÌNH I: Vị trí đập thủy điện Don Sahong 260 MW trên Thác  Khone  [Nguồn: MRC 2013 ]
Quyết định của Lào đã gây nên một làn sóng chống đối và phẫn nộ trong quần chúng các quốc gia láng giềng, các nhóm xã hội dân sự/ civil society groups và các tổ chức bảo vệ môi sinh uy tín trên thế giới như: IRN/ International Rivers Network, WWF/ Worldwide Fund for Nature…  
      Thế còn với dân chúng Lào thì sao? Họ đang phải sống dưới một chính quyền nhà nước độc đảng – như mô hình đảng Cộng Sản Việt Nam, hoàn toàn kiểm soát truyền thông báo chí, chỉ để loan truyền những thông tin thiếu trung thực và tô hồng thành quả phát triển do lợi nhuận từ các con đập. Vụ bắt cóc và có thể là thủ tiêu nhà hoạt động xã hội và bảo vệ môi sinh Lào rất nổi tiếng Sombath Somphone – từng được trao giải thưởng Magsaysay 2005, như thứ một giải Nobel Hòa Bình Á châu, đã bao trùm không khí khủng bố sợ hãi trên các nhóm xã hội dân sự còn rất non trẻ trên đất Lào. [2]
      Còn với ngót 20 triệu cư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long, như từ bao giờ, họ không chỉ thiếu thông tin mà cũng không ai cho họ có cơ hội để được lên tiếng, cho dù họ đang sống trên một khúc sông cuối nguồn, phải lãnh đủ mọi hậu quả tiêu cực tích lũy không phải chỉ có từ những con đập thủy điện Trung Quốc mà còn ngay từ các quốc gia hạ nguồn Mekong.    
      Về phía chính quyền các quốc gia Mekong, ngay sau khi MRC được Lào thông báo quyết định xây con đập Don Sahong, thì Mok Mareth, từ Cam Bốt nguyên là Bộ trưởng Môi sinh và hiện là chủ tịch Ủy hội Môi sinh và Tài nguyên Nước của Quốc hội, đã lên tiếng chỉ trích sự “thiếu trong sáng / lack of transparency”trong hành xử của Lào đối với hai con đập Don Sahong và Xayaburi.             Cho dù đã gửi điện thư tới chính phủ Lào yêu cầu cung cấp tài liệu về con đập Don Sahong nhưng đã không được đáp ứng, “Bộ Môi Sinh Cam Bốt chưa bao giờ nhận được những tường trình như vậy, điều ấy khiến chúng tôi hết sức quan tâm” [8]
Quan trọng hơn là Don Sahong sẽ gây tác hại trực tiếp tới một khu bảo tồn bất khả xâm phạm với Cam Bốt. Chính phủ Cam Bốt công bố và đã được Liên Hiệp Quốc nhìn nhận vùng wetland ở miền bắc Strung Teng gần thác Khone là vùng được bảo vệ theo công ước quốc tế Ramsar. Việc Lào không tham vấn Cam Bốt không những có thể là một vi phạm nặng nề vào Hiệp Định Mekong 1995 mà cả với công ước Ramsar của Liên Hiệp Quốc.       
      Về phía Việt Nam, phát ngôn viên của Tòa Đại sứ Trần Văn Thông phát biểu rằng Lào cần phải cung cấp các tài liệu lượng giá ảnh hưởng trước khi thông báo tiến hành xây đập và đồng thời cũng  nhấn mạnh tới sự cần thiết triệu tập một hội nghị khẩn cấp các thành viên MRC. Ông Thông nói tiếp: “Điều khẩn trương nhất là cần một cuộc thảo luận giữa tất cả các thành viên MRC để tiến tới một đồng thuận trước khi động thổ xây đập.”[8]   
      Theo quan điểm người viết, nếu ý thức được tầm quan trọng sinh tử của con đập Don Sahong là có thể gây đổ vỡ toàn hệ sinh thái trong lành của con sông Mekong và ảnh hưởng tai hại đến Đồng Bằng Sông Cửu Long, thì sự yêu cầu một hội nghị khẩn cấp phải giữa các nguyên thủ, hoặc ít nhất cũng phải ở cấp bộ trưởng của các quốc gia Mekong đã ký tên vào hiệp định MRC.
      Gạt bỏ  hẳn giải pháp quân sự – cho dù người ta có nói tới khả năng những cuộc “chiến tranh vì nước” trong thế kỷ 21, nhưng đây cũng chính là thời điểm quan trọng mà các quốc gia láng giềng Mekong trong đó có Việt nam, cần vận dùng toàn sức mạnh đối trọng về chính trị ngoại giao và kinh tế trên chính phủ Lào để tái lập một trật tự phát triển bền trong toàn vùng Hạ lưu Mekong.    
TIẾN TRÌNH PNPCA VÀ DON SAHONG
      Khi Ủy Ban Sông Mekong / Mekong River Committee 1957 chuyển thể sang Ủy Hội Sông Mekong / Mekong River Commission 1995 vẫn chỉ gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam nhưng có một một thay đổi quan trọng là theo nội quy mới của MRC 1995 thì không một quốc gia thành viên nào còn có quyền phủ quyết /veto power. (từ đây trong suốt bài viết, MRC là chữ tắt để chỉ Ủy Hội Sông Mekong 1995).  
      Tuy không còn quyền phủ quyết nhưng theo Hiệp định MRC 1995, thì mỗi dự án sông Mekong vẫn phải thông qua ba giai đoạn PNPCA như: (1) Thủ tục Thông báo / Procedures for Notification, (2) Tham vấn trước / Prior Consultation, (3) Chuẩn thuận / Agreement trên quy mô vùng / a regional decision-making process.
      Theo tinh thần ấy, khi có một dự án Sông Mekong, thì quốc gia thành viên liên hệ sẽ phải đệ nạp dự án và thông báo cho MRC để khởi đầu tiến trình PNPCA theo như quy định.  Qua kinh nghiệm Xayaburi, con đập dòng chính Mekong đầu tiên trên đất Lào, thì tiến trình PNPCA đã thực sự bị thử thách và Xayaburi đã là con Domino đầu tiên ngã đổ và đã trở thành một “tiền lệ nguy hiểm/ dangerous precedent”cho tương lai phát triển bền vững của toàn vùng Hạ Lưu sông Mekong.   
DON SAHONG PHÁT SÚNG THI ÂN
      Tuy công suất đập thủy điện Don Sahong tương đối rất nhỏ so với 11 dự án đập dòng chính hạ lưu khác, (còn nhỏ hơn cả mấy con đập phụ lưu của Lào như NamTheun-2: 1,070 MW), nhưng đó lại là trọng điểm vô cùng  thiết yếu cho sự sống còn của nguồn cá từ con sông Mekong. Bởi vì có hơn 80% các loài cá sông Mekong thuộc loại di ngư / migratory fishes, và tuỳ theo chủng loại, luân phiên quanh năm di chuyển lên thượng nguồn, lên xa tới Vạn Tượng và cả các khúc sông Mekong phía đông bắc Thái Lan.
Các loại cá từ Biển Hồ Cam Bốt và ĐBSCL Việt Nam, đã phải dùng các hẻm nước / water channels nơi thác Khone để lên thượng nguồn theo chu kỳ sinh sản và tăng trưởng.

      Đã có những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục từ World Fish Centre 2007và mới đây của Ian Baird thuộc Đại học Wisconsin, đã cho phổ biến một tài liệu chuyên đề giá trị trong Critical Asian Studies 2011: The Don Sahong; Potential Impacts on Regional Fish Migrations, Livelihoods, and Human Health với rất nhiều chi tiết về nguồn cá sông Mekong. [7]
     
      Tom Fawthrop ký giả người Anh hiện sống ở Thái Lan cũng là nhà đạo diễn phim tài liệu Where Have All the Fish Gone? Killing the Mekong Dam by Dam, đã minh họa về “Trận chiến trên sông Mekong” do khai thác thủy điện đang hủy diệt nguồn cá và ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của dân cư trong lưu vực. [9]

      Tầm vóc đập Don Sahong tuy nhỏ nhưng lại chắn ngay hẻm nước Hou Sahong được coi là quan trọng nhất đối với các đoàn di ngư đặc biệt là trong Mùa Khô / Dry Season.  Con đập “Nút Chặn” Don Sahong này sẽ làm đảo lộn sinh cảnh, gây rối loạn môi trường nước đưa tới nguy cơ tuyệt chủng của nhiều giống cá và hậu quả là sự sút giảm nghiêm trọng nguồn cá (sản lượng lên tới 3 triệu tấn/ năm, nguồn: MRC 2008), vốn được coi là phong phú nhất  không phải chỉ của Đông Nam Á mà của cả thế giới chỉ đứng sau con sông Amazon Nam Mỹ . Mà cá từ bấy lâu vẫn là nguồn chất đạm / protein chính của bao nhiêu triệu cư dân sông Mekong nhất là hai quốc gia Cam Bốt và Lào.  [3]





HÌNH II: Lúa Gia Rai tỉnh Bạc Liêu bị chết khô vì nước mặn xâm nhập.[ Nguồn: ảnh Gs. Võ Tòng Xuân ]

      Cho dù Lào có gửi thư thông báo trước / Prior Notification, nhưng Lào đã né tránh trình nộp dự án Don Sahong tới MRC với phần lượng giá “khoa học, khách quan, và độc lập” về ảnh hưởng môi sinh EIA / Environmental Impact Assessment theo đúng tiến trình Tham Vấn Trước / Prior Consultation để MRC và các quốc gia thành viên Mekong khác có thể đi tới một quyết định vùng / regional decision-making.

      Ame Tandem, một nhà hoạt động môi sinh bền bỉ có tiếng nói mạnh mẽ thuộc tổ chức International Rivers Network có trụ sở tại Berkeley, California, đã liên lục lên án tính thụ động trong vai trò điều hợp của MRC trong suốt diễn tiến từ con đập dòng chính đầu tiên Xayaburi và nay tới con đập Don Sahong: “Nếu MRC thất bại trong việc kiềm chế chánh phủ Lào, tổ chức này sẽ mất hết tính cách chính danh. MRC không thể để Lào né tránh trách nhiệm, và dự án Don Sahong phải qua giai đoạn Tham Khảo Trước / Prior Consultation  đúng như tinh thần của Hiệp Định MRC đã ký kết 1995.” Ame Trandem phát biểu tiếp: “Cần ngưng ngay mọi công trình xây đập trên dòng chính Mekong, để MRC có thể nghiên cứu ảnh hưởng của các dự án đập – đúng như thỏa thuận giữa chánh  phủ Lào và các quốc gia Mekong năm 2011.” [1, 4] 

      Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây về Hội nghị Siem Reap (The 18th Meeting of the Mekong River Commission Council; Siem Reap, 12/ 08/  2011), với thỏa thuận đình hoãn dự án xây đập Xayaburi trong vòng một thập niên 2010 – 2020 theo yêu cầu của toán đặc nhiệm Lượng Giá Môi Sinh Chiến Lược SEA / Strategic Environmental Assesment . [4]

      Cho dù đã có rất nhiều phát biểu phản ánh sự lạc quan sau Hội nghị Siem Reap lúc đó, điển hình là phát biểu của Lean Kean Nor Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi Trường Cam Bốt: “Kết quả hôm nay chứng tỏ các quốc gia thành viên tiếp tục cam kết hợp tác làm việc trong tinh thần Hiệp Định Sông Mekong nhằm tiến tới phát triển kinh tế nhưng không coi nhẹ cuộc sống bền vững của các cộng đồng cư dân và cả môi trường.”

      Nhưng cũng theo phân tích của người viết ngay sau Hội nghị Siem Reap 2011, thì thực tế đã không có nhiều nét lạc quan đến như vậy và cho rằng “Hội nghị Siem Reap chỉ đạt tới một thỏa hiệp rất mong manh” [4]

      Và các sự việc “rất không bình thường” diễn ra sau đó là công trình xây dựng con đập Xayaburi vẫn cứ liên tục tiến hành, từ âm thầm kín đáo, tới các bước công khai như hiện nay. Sự hiện hữu của con đập Xayaburi nay đã trở thành một hiện thực và bước hoàn tất là trong một tương lai rất gần. [4]

       Trước sự kiện Lào thông báo cho MRC quyết định tiến hành xây con đập Don Sahong, Chhith Sam Ath, Giám đốc điều hành Diễn Đàn Cam Bốt / Forum on Cambodia đã đưa ra nhận định: “ Đập Don Sahong sẽ đẩy hai quốc gia  Cam Bốt và Việt Nam tới khủng hoảng lương thực. Do con đập sát cạnh biên giới Cam Bốt, chính phủ Lào thì quên rằng cá là mạch sống và cũng là xương sống / backbone của nền kinh tế Cam Bốt. Cá là phần cơ bản dinh dưỡng và cũng là nguồn protein chính của chúng tôi.”  Chhith Sam Ath  phát biểu tiếp: “Thật là vô trách nhiệm khi cứ tiến hành dự án đập Don Sahong mà không có tham khảo gì với các cộng đồng cư dân hạ nguồn và cả không thực hiện một cuộc nghiên cứu khả tín về lượng giá ảnh hưởng xuyên biên giới / transboundary impact assessment. Hiển nhiên cá là một nguồn tài nguyên quá quý giá để mà có thể lãng phí.” [1]

      Teerapong Pomun, thành viện hoạt động của Hiệp hội Sông ngòi Thái Lan / Living Rivers Siam Association đã mạnh mẽ lên tiếng chỉ trích:  “Thêm một lần nữa, Lào tìm cách lẩn tránh trách nhiệm, trong khi đó lại cưỡng ép các cộng đồng cư dân trong vùng phải trả giá cho những tổn hại nghiêm trọng do con đập Don Sahong gây ra. Chính phủ Lào cần huỷ bỏ ngay dự án đập này, cùng với những con đập dòng chính khác trước khi quá trễ.” [1]
      Từ phía Việt Nam, Nguỵ Thi Khanh, Giám đốc Trung Tâm Phát Triển và Sáng Kiến Xanh / Green Innovation and Development Centre, Vietnam cũng đưa ra nhận định: “Năng lượng có thể được sản xuất qua các nguồn bền vững hơn, trong khi huỷ diệt nguồn cá và lương thực thì không thể đảo ngược. Các chánh phủ Mekong cần tìm ra một ngõ thoát cho tình trạng lưỡng nan này trước khi sự căng thẳng trong vùng gia tăng. Chúng ta không thể để cho chính trị và những quyết định đơn phương gây nguy hại cho các dòng sông, tương lai nguồn nước và an toàn lương thực. Bây giờ hơn lúc nào hết, chúng ta cần tổ chức MRC và các quốc gia thành viên cùng đứng ra bảo vệ những nguồn tài nguyên thiết yếu từ con sông Mekong cung ứng cho nhiều triệu cư dân.”

THAY LỜI KẾT
      Chưa một dự án đập thủy điện nào đã liên tục gây tranh cãi và chống đối trong những năm qua như dự án đập Don Sahong. Với mối lợi quá nhỏ và ngắn hạn, chỉ thêm được 260 MW điện, chính phủ Lào đã “mũ ni che tai”, bất chấp những lời can gián của các chuyên gia, vẫn cứ liều lĩnh “bật đèn xanh” cho tiến hành dự án Don Sahong, với cái giá rất đắt phải trả là sự hủy hoại vĩnh viễn cả một hệ sinh thái phong phú được coi là duy nhất còn lại của toàn lưu vực sông Mekong. Với con đập Don Sahong, thác Khone / Siphandone không còn là một kỳ quan thiên nhiên, mất hết sự hấp dẫn của một khu du lịch sinh thái / ecotourism, bấy lâu vẫn đem về một nguồn ngoại tệ rất đáng kể cho nền kinh tế Lào; không kể trước mắt là khủng hoảng lương thực do mất nguồn cá, mất nguồn chất đạm chính của đa số người dân Lào còn suy dinh dưỡng.
Tinh thần của Điều 7 trong Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995: “Các quốc gia thành viên ký kết cùng đồng ý là bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại trên môi trường… do phát triển và xử dụng Lưu vực Sông Mekong.” Điều ấy vẫn phải được chính phủ Lào và các quốc gia Mekong cùng tôn trọng.

NGÔ THẾ VINH
26 – 10 – 2013


THAM KHẢO:

1/ Fish Plunder at Stake, Laos Announces Plans to Build Don Sahong Dam. IRN, October 2, 2013 http://www.internationalrivers.org/resources/pr-fish-plunder-at-stake-laos-announces-plans-to-build-don-sahong-dam-8102
2/ Laos' Mekong dam moves stir up public discontent. Jim Pollard. The Nation, October 10, 2013

3/  Laos PDR Breaks Ground for Xayaburi Dam, A Tragic Day for the Mekong River and Mekong Delta. Ngô Thế Vinh.


5/ Lao PDR submits notification on Don Sahong Hydropower Project. Vientiane, Lao PDR, 3rd Oct 2013

6/ Controversial Don Sahong Dam Closer to Construction.
Milton Osborne, Lowy Institute for International Policy. The Interpreter 4 October 2013 http://www.lowyinterpreter.org/author/Milton%Osborne.aspx

7/ The Don Sahong; Potential Impacts on Regional Fish Migrations, Livelihoods, and Human Health. Ian G. Baird. Critical Asian Studies Volume 43, Issue 2, 2011 http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/14672715.2011.570567#.Umni5yhYmgF
8/  Officials Criticize Laos Over Don Sahong Dam. Kuch Naren and Dene-Hern Chen – The Cambodian Daily, October 26, 2013 http://www.cambodiadaily.com/news/officials-criticize-laos-over-don-sahong-dam-44888/

9/ Where Have All the Fish Gone? Killing the Mekong Dam by Dam. Tom Fawthrop. Video-DVD 2013



Read more ...