Pages

Tiêm vắcxin và sự đồng thuận

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013
Vắcxin Quinvaxem lại trở thành một mối quan tâm của công chúng. Nhưng lần này chúng ta có thêm dữ liệu để có thể bình tỉnh đánh giá lợi và hại của vắcxin. Theo tôi, cần phải phân biệt giữa hiệu quả trong cộng đồng và nguy cơ của một cá nhân. Một khía cạnh khác hình như hay bị xem nhẹ là sự đồng thuận của thân nhân trẻ em được tiêm vắcxin. 

Có thể nói ngay rằng các chương trình tiêm vắcxin ở qui mô cộng đồng là một trong những thành tựu đáng kể của y tế công cộng. Chứng cứ khoa học chỉ ra rõ ràng rằng các chương trình tiêm chủng giảm nguy cơ tử vong ở trẻ em tại các nước phát triển. Nhưng vấn đề là tiêm chủng vắcxin trong cộng đồng đòi hỏi nhiều liều vắcxin và có thể không tiện lợi. Trong thời gian gần đây, do phát triển của công nghệ sinh học, nên chúng ta có những “vắcxin tổng hợp” như DTP và Quinvaxem. Vắcxin DPT như tên gọi là vắcxin phòng chống các bệnh bạch hầu, uốn ván, và ho gà. Quinvaxem là một vắcxin tổng hợp “năm trong một”, chẳng những phòng chống bạch hầu, uốn ván, ho gà, mà còn phòng chống viêm gan và viêm màng não mủ do Hib, vốn khá phổ biến ở Việt Nam.

Ít nghiên cứu 
Một điều hơi ngạc nhiên là rất ít nghiên cứu về hiệu quả và an toàn của Quinvaxem trong y văn. Tìm trong thư viện y khoa toàn cầu (Pubmed) tôi chỉ thấy khoảng 5 bài nghiên cứu liên quan đến Quinvaxem, trong đó chỉ có một nghiên cứu về hiệu quả và an toàn của vắcxin này ở trẻ em Ấn Độ. Công trình nghiên cứu ở Ấn Độ trên 161 trẻ em 6-14 tuần sau khi sinh cho thấy Quinvaxem an toàn và có hiệu quả tốt. Một nghiên cứu trên 120 trẻ em ở Cao Lãnh vào năm 2009-2011 cho thấy cũng cho thấy vắcxin Quinvaxem có hiệu quả rất tốt.

Tuy nhiên, những nghiên cứu trên là nghiên cứu lâm sàng, tức có sự giám sát tốt của bác sĩ và y tá trong thời gian theo dõi. Để biết tính an toàn của Quinvaxem trong cộng đồng (nơi mà ít có sự giám sát có hệ thống), các nhà khoa học đã triển khai một nghiên cứu ở Guatamala trên 3000 trẻ em. Nghiên cứu này cho thấy, tính chung, tỉ lệ có phản ứng là 1288 ca (tức 43%), nhưng chỉ có 8 ca được xem là nghiêm trọng và có liên quan đến vắcxin Quinvaxem. Những kết quả trên cho thấy Quinvaxem vừa có hiệu quả và vừa an toàn. Thật ra, Tổ chức Y tế Thế giới đã phê chuẩn Quinvaxem cho các nước đang phát triển từ năm 2006.

Tai biến : quần thể và cá nhân 

Nhưng gần đây, khi triển khai Quinvaxem ở Việt Nam, tính an toàn của vắcxin này trở thành một mối quan tâm. Theo một quan chức y tế, tính từ tháng 10/2010 đến nay, “đã có 43 trẻ em bị phản ứng nặng sau khi tiêm Quinvaxem, trong đó 27 trường hợp tử vong không liên quan đến tiêm chủng, 9 trường hợp có thể xem làm là liên quan nhưng đều hồi phục. Các trường hợp khác có thể liên quan nhưng chưa xác định được nguyên nhân, chưa đủ thông tin để kết luận.” Nhưng tiết lộ đáng quan tâm là tính trung bình mỗi năm có khoảng 10 trẻ em tử vong sau khi dùng vắcxin.

Vấn đề đặt ra là tại sao trong các nghiên cứu lâm sàng thì Quinvaxem tỏ ra rất an toàn, nhưng khi áp dụng đại trà thì lại xảy ra tai biến? Trong nghiên cứu lâm sàng, các nhà khoa học tuyển chọn đối tượng theo những tiêu chuẩn định trước để đảm bảo đối tượng thích hợp cho nghiên cứu. Nhưng khi triển khai trong cộng đồng thì các giới chức y tế khó có thể kiểm soát được các tiêu chuẩn như trong nghiên cứu lâm sàng. Do đó, rất có thể tai biến xảy ra trong thời gian qua một phần là do việc tuyển chọn đối tượng cho dùng vắcxin chưa được tốt.

Nhưng dù lí do gì thì 10 ca tử vong mỗi năm phải là một hiện tượng đáng quan tâm. Nếu ở Úc hay bất cứ nước phát triển nào mà xảy ra những ca tử vong như thế, bất kể có hay không có liên quan đến vắcxin, thì chắc chắn đã làm rúng động hệ thống y tế và chính trị, chứ không chỉ là một câu nói suông. Có lẽ đối với những chuyên gia dịch tễ học 10 ca quá nhỏ so với hàng triệu trẻ em được tiêm chủng hàng năm. Nhưng trong thực tế thì 10 ca tử vong có nghĩa là 10 cái tang cho 10 gia đình hàng năm. Và, những cái tang đó không có cách gì định lượng được nỗi đau và sự mất mát trong tương lai.

Cần phân biệt giữa quần thể (cộng đồng) và cá nhân. Bởi vì vắcxin được bào chế để phòng chống bệnh, cho nên hiệu quả và an toàn của vắcxin chỉ có thể đánh giá qua cộng đồng, qua một nhóm đối tượng. Điều trớ trêu là kết quả nghiên cứu trên một cộng đồng có thể không áp dụng cho một cá nhân. Các quan chức có thể lí giải rằng tỉ lệ phản ứng nặng và tử vong sau khi tiêm vắcxin là rất thấp, như 10 trên hàng triệu người, và đó là một thực tế. Người ta có thể nói về tỉ lệ trong một quần thể, nhưng không thể nói tỉ lệ cho một cá nhân. Quần thể có mẫu số, còn một cá nhân thì mẫu số là 1. Một cá nhân hoặc là có, hoặc là không có phản ứng. Nhưng khi tử vong xảy đến một cá nhân thì tỉ lệ đó là 100%! Do đó, dùng dữ liệu thống kê của một quần thể để nói về tính an toàn cho một cá nhân chẳng những thiếu hợp lí mà còn … vô cảm.

Đồng thuận sáng suốt 

Cá nhân có quyền lựa chọn. Quyền lựa chọn đó được thể hiện qua văn bản đồng thuận khi tiêm vắcxin. Văn bản đó tiếng Anh gọi là informed consent, tạm dịch là đồng thuận sáng suốt. Sự đồng thuận hay lựa chọn của bệnh nhân (hay đối tượng tiêm chủng ngừa) được mô tả trong bản Tuyên ngôn Helsinki. Tuyên ngôn Helsinki nói rất rõ rằng lợi ích của con người phải được đặt trước và trên lợi ích của khoa học và xã hội. Nhưng hình như trong thời gian qua, ít ai chú ý đến khía cạnh quan trọng này. Một phần là nhân viên y tế quá bận rộn không có thì giờ giải thích, một phần khác là người ta (giới chức y tế và công chúng) chưa ý thức đầy đủ vấn đề đồng thuận sáng suốt.

Các chuyên gia về y đức lí giải rằng quyết định tiêm chủng phải là quyết định của đối tượng. Cố nhiên, trẻ em 5-10 tuần tuổi thì không có khả năng để kí tên đồng thuận cho tiêm vắcxin, cho nên người đồng thuận phải là cha mẹ hay ai đó được ủy quyền. Cần lưu ý là đồng thuận sáng suốt, tức là đồng thuận dựa vào thông tin. Điều này có nghĩa là y sĩ phải cung cấp thông tin về lợi ích và rủi ro khi tiêm vắcxin. Rủi ro kể cả phản ứng nhẹ, phản ứng nặng, và tử vong. Không chỉ cung cấp thông tin, mà thông tin phải được thực chứng từ các nghiên cứu khoa học.

Cần nghiên cứu khoa học 

Do đó, chúng ta rất cần nhiều nghiên cứu khoa học về hiệu quả và an toàn của vắcxin. Thật ra, theo logic thông thường, một khi vắcxin đã được đưa ra sử dụng trong cộng đồng thì vẫn cần phải có giám sát tốt. Trong môi trường nghiên cứu lâm sàng, đối tượng (trẻ em) được theo dõi kĩ, nên tai biến hay phản ứng phụ có thể ít hơn trong môi trường cộng đồng khi vắcxin được dùng một cách đại trà. Cần phải thiết lập một hệ thống giám sát an toàn của vắcxin (tiếng Anh còn gọi là post marketing surveillance). Trong chương trình giám sát, các số liệu về phản ứng phụ, tai biến, lợi ích và nguy cơ lâu dài của thuốc cần phải được thu thập và báo cáo, để sau đó có thể đúc kết được giá trị "thật" của thuốc.

Trong thời đại y học thực chứng, ý kiến của các chuyên gia hay của các tổ chức quốc tế (cho dù là Tổ chức Y tế Thế giới) tuy quan trọng, nhưng không thể quan trọng hơn chứng cứ. Các chuyên gia cho rằng các trường hợp tai biến trong thời gian qua không có liên quan đến Quinvaxem, nhưng công chúng cần chứng cứ và đánh giá khách quan của các chuyên gia độc lập (chứ không phải của Tổ chức Y tế Thế giới). Công chúng cần chứng cứ về tính hiệu quả và an toàn của vắcxin ở người Việt Nam, chứ không phải ở người nước ngoài. Trong thực tế, xác định nguyên nhân tử vong không phải dễ dàng chút nào. Đối với nhiều loại thuốc, cho dù tai biến xảy ra có thể chẳng liên quan gì đến thuốc, nhưng vẫn phải có cảnh báo cho bệnh nhân biết. Tương tự, có thể những tai biến trong thời gian qua chẳng liên quan gì đến Quinvaxem, nhưng thiết nghĩ một cảnh báo về những tai biến đó cần phải được nói cho công chúng biết.

Trong bối cảnh có khá nhiều tai biến và tử vong, có lẽ biện pháp thích ứng nhất là ngưng sử dụng Quinvaxem một thời gian. Trong thời gian đó, cần phải có những nghiên cứu qui mô để đánh giá tính an toàn của vắcxin, và xác định các tiêu chuẩn chọn đối tượng thích hợp cho Quinvaxem. Nhưng nói cho cùng quyết định dùng hay không dùng Quinvaxem cho trẻ em là quyền quyết định cá nhân của cha mẹ, và quyền đó cần phải được tôn trọng.


Read more ...

VN có bao nhiêu tác gia? Nhân đọc "Từ điển Văn học Việt Nam"

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013
Gặp lại một bài cũ (đã đăng trên Tạp chí Việt hơn 10 năm trước), nhưng chưa có dịp giới thiệu các bạn trong nước. Đọc lại vẫn thấy có ích. Nhân đọc "Từ điển Văn học Việt Nam", tôi thử đếm xem VN có bao nhiêu tác gia, họ sống thọ bao lâu, quê quán ở đâu, v.v. Nhìn sơ qua con số thì thấy dân Thanh Nghệ Tĩnh hơn hẳn Tràng An! 

Gần đây, có một số ý kiến cho rằng nền văn học Việt Nam thời Trung đại, nhất là từ đầu thế kỉ 18 trở về trước, rất yếu kém, vì sáng tác của các tác gia thời đó còn rất khiêm tốn (xem, chẳng hạn như, Tạp san Việt với chủ đề "Văn học Việt Nam bước vào thế kỉ 21" [1]). Tuy nhiên, phần lớn những nhận xét như thế thường mang tính định chất và có khi dựa vào quan điểm chủ quan của tác giả. Thực vậy, cho đến nay, chưa có một phân tích định lượng một cách có hệ thống nào để cho thấy nhận xét trên có cơ sở hay không. Một câu hỏi hiển nhiên là tại sao mức độ sáng tác của những người làm văn nghệ thời trước lại kém. Ngoài vài nguyên nhân khả dĩ liên quan đến đề tài sáng tác, một giả thuyết có thể đặt ra ngay là số lượng người làm nghề sáng tác trong các thế kỉ trước chưa nhiều.

Giả thuyết đó nảy sinh ra vài câu hỏi khác mang tính định lượng mà tôi hằng thắc mắc là: có bao nhiêu tác gia Việt Nam trong thời kỳ lập quốc cho tới nay, thân thế họ ra sao, có bao nhiêu người là nữ, họ đã sáng tác và để lại được bao nhiêu tác phẩm lớn, v.v.. Thật là khó mà trả lời một cách chính xác cho những câu hỏi như thế, vì một phần nó nằm ngoài chuyên môn của tôi, và một phần sử liệu về văn học của nước ta chưa được soạn thảo một cách có hệ thống. Nhưng may thay, mới đây, soạn giả Lại Nguyên Ân cùng với Bùi Văn Trọng Cường đã sưu tầm tiểu sử và sáng tác của một số tác gia tiêu biểu từ nguồn gốc đến thế kỉ 19, và hệ thống hoá trong cuốn sách Từ điển Văn học Việt Nam (TĐVHVN) [2]. Những tác gia này được xem như là những người đã đặt nền móng cho nền văn học nước nhà trước thế kỉ 20. Thực ra, TĐVHVN không những trình bày tiểu sử của các tác gia, mà còn có nhiều thông tin liên hệ đến các tác phẩm cùng các hiện tượng đáng chú ý của tiến trình văn học dân tộc. Sách còn có những mục từ giải thích các thể loại thơ, văn, hát.
Vì thấy sách cung cấp những thông tin có thể dùng để trả lời những tò mò trên của tôi, nên tôi đã thử làm một vài phân tích thống kê về các dữ kiện trên [3]. Bài viết này chỉ nhằm tóm lại kết quả của phân tích đó nhằm cống hiến cho độc giả có một cái nhìn định lượng, nhưng tổng quan, về các tác gia và tác phẩm Việt Nam thời trước thế kỉ 20.

Số lượng

Theo TĐVHVN, tính từ đầu thế kỉ 1 đến cuối thế kỉ 19, Việt Nam có 276 tác gia [4]. Số lượng tác gia tăng dần theo thời gian. Trong những thế kỉ 2 đến 12, mỗi thế kỉ chỉ thấy có 1 đến 5 tác gia. Vào thế kỉ 13 đến thế kỉ 17, có 111 tác gia (tức là 40% trong tổng số tác gia). Sau thời kỳ này, số lượng tác gia tăng lên đến 71 người vào thế kỉ 18 và 78 người vào thế kỉ 19; như vậy, chỉ trong hai thế kỉ này số lượng tác gia chiếm gần 54% tổng số kể từ ngày khởi lập.
Tính theo niên đại, người mở đầu cho nền văn học Việt Nam là quan Thái thú người Trung Hoa, Sĩ Nhiếp, sinh năm 137 và mất năm 226. Sĩ Nhiếp có công truyền bá việc học chữ Hán và do đó Nho học vào nước ta vào thời Bắc thuộc. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sử học có khi không đồng ý về ý nghĩa việc làm của ông. Có người cho là ông việc làm của ông là nhằm vào việc duy trì nền đô hộ của đế chế Hán, nên không được xét đến trong tiến trình lịch sử và văn hoá Việt Nam. Nhưng cũng có người suy tôn ông là "Nam bang học tổ", tức là "Ông tổ việc học ở nước Nam". Gần đây, tài liệu nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam cho thấy Sĩ Nhiếp là một ông quan cai trị tốt ("hương lại"), và việc làm của ông nên được ghi nhận như là một nghĩa cử cho nền văn học nước nhà.

Suốt từ thế kỉ 3 đến thế kỉ 6, sách không liệt kê một tác gia nào. Thế kỉ 7 có một tác gia, nguyên là một nhà sư, hiệu là Đại Thừa Đăng, không rõ tên thật cùng năm sinh, nhưng chỉ biết ông mất nào năm 601. Ông là một nhà sư đi chu du nhiều nơi, qua các nước Trung Hoa, Sư Tử (Sri Lanka ngày nay), Ấn Độ, v.v... và qua đó quen biết nhiều bạn bè trong Phật giáo. Một trong những người bạn thân của ông là Đạo Hy, một nhà sư Trung Hoa. Khi Đạo Hy qua đời, Đại Thừa Đăng có viết một bài thơ chữ Hán để khóc bạn có tựa đề là Điếu Đạo Hy. Theo giới nghiên cứu văn học Việt Nam, đây có thể là sáng tác văn học sớm nhất của người Việt mà hiện nay còn được biết.

Thế kỉ 8 và 9 có một tác gia tên là Khương Công Phụ, người gốc Thanh Hoá, không rõ năm sinh và năm qua đời, chỉ biết ông sống vào thời kỳ đất nước ta chịu sự cai trị của Nhà Đường (tức thế kỉ 8 và 9). Ông theo nho học, sang Trường An (kinh đô Nhà Đường) ứng thi và đỗ đầu khoa Hiền Lương Phương Chính năm Canh Thân (780) đời Đường Đức Tông. Sau này ông làm quan cho Tàu đến chức Gián nghị Đại phu, Đồng trung Thư môn Hạ bình chương. Về sau, ông bị truất phế làm Biệt giá ở Tuyên Châu, đến đời Thuận Tông lại được bổ làm Thứ sử ở Cát Châu, rồi mang bệnh và chết tại Tuân Hoá, Khâm Châu; tại đây còn có đền thờ. Tác phẩm duy nhất của Khương Công Phụ là Bạch vân chiếu xuân hải phú (bài phú Mây trắng chiếu biển xuân) chữ Hán. Tác phẩm này được Lê Quý Đôn nhận xét là "lời văn đẹp đẽ". Đây là một trong số rất ít những tác phẩm thành văn vào loại xưa nhất của tác gia người Việt hiện còn giữ được.

Từ thế kỉ 10 đến thế kỉ 12, số lượng tác gia vẫn chưa nhiều: chỉ 13 người. Trong số này có Ngô Chân Lưu (tức Khuông Việt, 933 - 1011), Nguyễn Vạn Hạnh (? - 1018), vua Lý Thái Tổ (974 - 1028), Mai Trực (tức Viên Chiếu, 999 - 1091), Lý Thường Kiệt (1019 - 1105, Lý Trường (Mãn Giác, 1052 - 1096), Từ Lộ (Đạo Hạnh, ? - 1117), Lê Thị Ỷ Lan (? - 1117), Pháp Bảo (thế kỉ 12), Dương Không Lộ (? - 1119), Nguyễn Công Bật (sống vào thế kỉ 11 hay 12), vua Lý Nhân Tông (1066 - 1128), và Nguyễn Nguyên Ức (tức Viên Thông, 1080 - 1151).

Sau thời kỳ này, số lượng tác gia Việt Nam vượt lên con số 16 (thế kỉ 13), 21 người (thế kỉ 14), 36 người (thế kỉ 15), 19 người (thế kỉ 16), 19 người (thế kỉ 17). Trong thế kỉ 18, con số các tác gia tăng lên 71 người và đạt mức cao nhất vào thế kỉ 19 với 78 tác gia.
Giới tính

Trong số 276 tác gia, chỉ có 11 người là nữ. Những vị này là: Lê Thị Ỷ Lan, Ngô Chi Lan (? - 1401), Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), Lê Ngọc Hân (1770 - 1799), Hồ Xuân Hương (Thế kỉ 18-19), Nguyễn Thị Hinh (tức Bà Huyện Thanh Quan, (Thế kỉ 19), Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà (1829 - 1882), Công chúa Nguyễn Vĩnh Trinh (1824 - 1892), Công chúa Nguyễn Trinh Thận (1826 - 1904), Nguyễn Nhược Thị Bích (1830 - 1909), và một nhà sư hiệu là Pháp Tính (? - 1701).

Trong danh sách nhỏ này, ngoài Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Thị Hinh, và Lê Ngọc Hân ra, các tác giả khác còn ít được biết đến trong công chúng. Ngô Chi Lan là một nhà thơ, nguyên quán ở làng Phù Lỗ, huyện Kim Hoa (nay là Kim Anh), tỉnh Phúc Yên. Có sách chép rằng bà là con nuôi của Nguyễn Thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi). Bà sống vào thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), thuở nhỏ thông minh, đọc nhiều, và khi trưởng thành có tiếng là người làm thơ hay. Bà thường được vua Lê Thánh Tông vời vào cung hầu thơ, và còn được phong chức Phù gia Học sĩ, tức chuyên lo chuyện lễ nghi, văn chương cho các cung nữ trong triều đình. Tác phẩm của Ngô Chi Lan còn sót lại cho đến thế kỉ 15 (nhưng nay đã thất lạc) là tập thơ chữ Hán Mai trang tập, gồm 7 bài thơ vịnh cảnh, vịnh sử. Bà được coi là một nhà thơ nữ đầu tiên có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà thời xưa.

Lê Thị Ỷ Lan (không rõ tên thật) nguyên quán làng Thổ Lỗi, lộ Bắc Giang (nay là ngoại thành Hà Nội), nguyên phi của Lý Thánh Tông, và mẹ của Lý Nhân Tông. Theo truyền thuyết, khi vua Lý Thánh Tông kinh du qua làng Thổ Lỗi, các cô thôn nữ đang hái dâu tràn ra đường xem xe vua, nhưng chỉ riêng có một cô gái đứng bên gốc lan mà hát, không màn đến việc diện kiến nhà vua. Vua Lý Thái Tông cho là người có bản lĩnh, nên đưa về cung lập làm phu nhân, đặt tên Ỷ Lan (có nghĩa là "dựa gốc lan"). Một số sách vở và tài liệu cho thấy bà có tham gia vào việc triều chính, khuyên vua ban hành chính sách cấm giết trâu bò bừa bãi. Khi vua đi đánh giặc, bà là người đứng ra lo việc nội chính rất vững vàng. Bà là người sùng đạo Phật. Tác phẩm của bà để lại là một bài kệ ngắn luận bàn về hai phạm trù "sắc" và "không" trong đạo Phật.

Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà là con gái thứ 34 của vua Minh Mệnh, em ruột Tùng thiện vương Miên Thẩm và công chúa Mai Am Nguyễn Trinh Thận. Bà có năng khiếu thơ văn trong giới cung đình, và còn rành cả nhã nhạc. Bà còn để lại một tập thơ Huệ Phố thi tập, gồm 260 bài thơ tức cảnh, đề vịnh, cảm hoài. Thơ của bà được anh trai (Tùng thiện vương) khen là "lời gọn gàng, ý lưu loát, văn trôi chảy, điệu mạnh mẽ."

Chị của Nguyễn Tĩnh Hoà là Nguyễn Trinh Thận, con gái thứ 25 của vua Minh Mệnh. Bà học giỏi, đọc nhiều, và có tiếng là làm thơ vừa thanh, vừa khoẻ, tự nhiên mà trau chuốt. Tác phẩm bà còn để lại là Diệu liên tập, in hai lần vào năm 1867 và 1883. Tập thơ này gồm 227 bài thơ viết bằng chữ Hán, cũng chủ yếu và vịnh cảnh vật, sử, cảm tác, xướng hoạ, khóc anh chị em trong triều đình ...

Nguyễn Nhược Thị Bích (còn có tên là Nguyễn Thị Bích), nguyên quán ở Ninh Thuận (tức Bình Thuận ngày nay), từng được vời vào cung và được phong chức Thượng nghi viện sự, "tài nhân", "mỹ nhân", "quý nhân", "tiệp dư" dưới thời của vua Tự Đức. Bà là người dạy học cho Kiến Phúc và Đồng Khánh (khi hai người này chưa lên ngôi vua). Bà còn tham gia biên soạn sắc dụ cho bà Từ Dũ (tức mẹ của vua Tự Đức) và bà Trang Ý (vợ vua Tự Đức). Sáng tác đáng kể và còn lưu lại đời sau của Nguyễn Nhược Thị Bích là Hành thục ca, gồm 1018 câu lục bát, chữ Nôm, nội dung kể lại các sự kiện ở triều đình Huế từ khi người Pháp vào Việt Nam.

Bà Hương Chân (sống vào thế kỉ 17), phật danh là Pháp Tính, có thể là người soạn cuốn Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, tức là Từ điển Hán Nôm đầu tiên ở nước ta. Thực ra, có bằng chứng cho thấy quyển này đã có từ đời Sĩ Nhiếp, nhưng mãi đến thế kỉ 17 mới được Pháp Tính chọn từ và sắp xếp lại cho có hệ thống như một cuốn từ điển.

Tuổi thọ

Trong số 188 tác gia có thể xác định được năm sinh và năm qua đời, tuổi thọ trung bình của 188 tác gia này là 62 tuổi. Khoảng 25% (trong số 188) tác gia có tuổi thọ dưới 50 tuổi, và 25% tác gia thọ trên 72 tuổi. Người có tuổi thọ ngắn nhất là Ngô Thì Ức, sinh năm 1709 và mất năm 1736, tức chỉ thọ 27 tuổi. Người có tuổi thọ cao nhất là Huỳnh Quỳ, sinh năm 1828 và mất năm 1926, tức thọ 98 tuổi. Huỳnh Quỳ, còn có danh hiệu là Tú Quỳ, là một nhà thơ sống vào đời vua Minh Mệnh, quê quán ở Quảng Nam, nhưng tổ tiên di cư từ Hà Tĩnh. Ông là tác gia của khoảng 300 đơn vị tác phẩm, gồm những bài văn tế và phú, và thơ vịnh thuộc loại trào lộng.
Điều tương đối thú vị là những tác gia nguyên quán ở Nghệ An, Huế, và Nam Định có tuổi thọ trung bình thấp hơn (khoảng 56-59 tuổi) những đồng nghiệp của họ thuộc các vùng khác của đất nước như Hà Nội (63 tuổi), Bắc Ninh (64), Hưng Yên (63), và Thanh Hoá (64).

Quê quán và quốc tịch

Phần lớn các tác gia có nguyên quán ngoài Bắc (166 người). Miền Trung có 75 tác gia, và miền Nam có 13 tác gia. Số còn lại không xác định được nguyên quán. Tuy đến từ nhiều vùng khác nhau trong nước, nhưng nguyên quán của phần đông các tác gia tập trung ở một số tỉnh như sau: ở miền Bắc có Hà Nội (34 người), Hải Dương (26), Bắc Ninh (25 người), Hà Tây (25), Nam Định (21), và Hưng Yên (13); ở miền Trung: Thanh Hoá (21), Nghệ An (17), Hà Tĩnh (13), và Huế (13); ở miền Nam: Gia Định (6).

Thực ra, nói là 276 "tác gia Việt Nam" cũng không hẳn chính xác, vì trong số này có 3 tác gia có quốc tịch nước ngoài: Girolarmo Majorica (1591 - 1656), Alexandre de Rhodes (1591 - 1660), và Sĩ Nhiếp (137 - 226).

Dòng họ

Trong số các tác gia, có tất cả 51 họ. Trong số này, họ Nguyễn chiếm đa số, với 80 (tức 29%) tác gia. Tiếp theo là các thường gặp phải là: Trần (19 tác gia, hay 7%), Lê (18 tác gia, hay 6.5%), Ngô (16 tác gia, hay 6%), Phạm (14 tác gia, hay 5.1%), Vũ (12 tác gia, hay 4.3%), Phan (10 tác gia, hay 3.6%), và Đặng (3.6%).

Một số tác gia xuất phát từ một dòng họ như họ Phan Huy có đến 4 người trong từ điển. Đứng đầu họ này là Phan Huy Ích (1751- 1822), con cả của Tiến sĩ Phan Huy Cận (1751 - 1822). Những người trong dòng họ Phan Huy khác là: Phan Huy Thực (1778 - 1844) và Phan Huy Chú (1782 - 1840), là hai con của Phan Huy Ích; và Phan Huy Vịnh (1800 - 1870), con của Phan Huy Thực.

Ngoài giòng họ Phan Huy, một họ khác có nhiều người nổi tiếng hơn là họ Ngô Thì. Người đứng đầu trong danh sách họ này là Ngô Thì Ức (1709 - 1736). Người thứ hai là Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780), con của Ngô Thì Ức. Ngô Thì Sĩ cũng là bố vợ của Phan Huy Ích. Người thứ ba và có lẽ là người nổi tiếng nhất trong họ này là Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), con của Ngô Thì Sĩ. Em của Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Chí (1753 - 1788) và Ngô Thì Trí (1766 - ?) cũng là những danh sĩ nổi tiếng có tên trong Từ Điển. Ngoài ra, còn có Ngô Thì Hương (1774 - 1821) là con thứ của Ngô Thì Sĩ; Ngô Thì Du (1772 - 1840), cháu gọi Ngô Thì Sĩ bằng bác; và Ngô Thì Hiệu (1791 - 1830), không rõ quan hệ với các Ngô Thì Sĩ ra sao.

Trong các vị vua Việt Nam, có lẽ vua Minh Mệnh là người có nhiều con nhất, và họ cũng có mặt khá đông trong hàng ngũ tác gia. Trong nhóm con trai có Nguyễn Miên Thẩm (1819 - 1870, con thứ 10), Nguyễn Miên Trinh (1820 - 1897, con thứ 11), Nguyễn Miên Bửu (1820 - 1854, con thứ 12); và trong nhóm nữ, có Nguyễn Trinh Thận (con gái thứ 25) và em là Công chúa Nguyễn Tĩnh Hoà (con gái thứ 34) là những nhà thơ được chú ý.

Tất nhiên, sách không thể thiếu hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, và hai cha con Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Dật, cũng là những tác gia nổi tiếng trong nền văn học cổ Việt Nam. Ngoài ra, trong gia phả của Nguyễn Du, ngoài ông ra, còn có Nguyễn Nghiễm (thân phụ, 1708 - 1775) và Nguyễn Hành (cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, 1771 - 1824).

Nghề nghiệp

Trong tổng số tác gia, có 271 người có thể xác định nghề nghiệp. Và trong số 271 tác gia này, có đến 69% (hay 187) là quan chức. Phần còn lại là: nhà sư (7% người); nhà thơ ( trên dưới 7% người); vua, chúa (5%), và một số ngành nghề khác như nhà văn, nhà khảo cứu, tướng lãnh, thầy giáo, v.v.

Trong số các tác gia mà nghề nghiệp chính là tu sĩ gồm có Đại Thừa Đăng (? - 601), Ngô Chân Lưu (933 - 1011), Nguyễn Vạn Hạnh (? - 1018), Mai Trực (999 - 1091), Lý Trường, tức Mãn Giác (1052 - 1096), Pháp Bảo (? - 1111), Nguyễn Nguyên Ức (1080 - 1151), Dương Không Lộ (? - 1119), Trần Tung, tức Tuệ Trung Thượng sĩ (1230 - 1291), Đồng Kiên Cương (1284 - 1330), Thường Chiếu (? - 1203), Lý Đạo Tài (1254 - 1320), Pháp Tính (? - 1701), và Hương Hải Thiền sư (1769 - 1832).

Một số khác là linh mục như Philip Bỉnh (1759 – 1832), Alexandre de Rhodes, và Lữ Y Đoan (? – 1678). Trong nhóm sau này, ngoài tác gia nổi tiếng là Alexandre de Rhodes, hai tác gia Philip Bỉnh và Lữ Y Đoan rất ít được nhắc đến, tuy công của họ không phải là nhỏ. Linh mục Philip Bỉnh (không rõ họ), nguyên quán Hải Dương, theo dòng Tên, và khi dòng này bị Toà thánh La Mã bỏ rơi, ông đã bỏ sang sống ở Bồ Đào Nha và sau này chết ở đó. Về văn học, có thể nói Philip Bỉnh là tác gia đầu tiên để lại tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ. Ông là người viết cuốn Sách sổ sang chép các việc, Chuyện Anam Đàng Ngoài, và Chuyện Anam Đàng Trong. Lữ Y Đoan (không rõ họ), còn có tên là Louis Đoan, người quê Quảng Ngãi, thụ phong linh mục năm 1676, lúc đã ngoài 60 tuổi. Ông là tác giả của Sấm truyền ca (1670), một tập thơ lục bát viết bằng chữ Nôm, nhưng là một phóng tác 5 quyển đầu của Kinh Thánh.

Trong số 13 tác gia có gốc vua, chúa, có đến 6 người thuộc nhà Trần: Trần Thái Tông (1218 - 1277), Trần Thánh Tông (1240 - 1290), Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Trần Anh Tông (1276 - 1320), Trần Minh Tông (1300 - 1357), và Trần Nghệ Tông (1321 - 1395). Đời Nhà Lý có hai vị vua là tác gia: Lý Thái Tổ (974 - 1028) và Lý Nhân Tông (1066 - 1128). Phần còn lại là các vị thuộc nhà Lê, nhà Nguyễn, và Chúa Trịnh: Lê Thánh Tông (1442 - 1497), Nguyễn Hồng Nhậm hay Tự Đức (1829 - 1883), Trịnh Doanh (1720 - 1767), và Trịnh Sâm (1737 - 1782).

Trong số các tướng lãnh kiêm tác gia gồm có: Lý Thường Kiệt (1019-1105), Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300), Trần Quang Khải (1241 - 1291), Phạm Ngũ Lão (1256 - 1320), Nguyễn Hữu Dật (1604 - 1681), và Nguyễn Hữu Hào (1647 - 1718). Trong danh sách này, có lẽ hai người sau được ít người biết đến. Nguyễn Hữu Hào là con của Nguyễn Hữu Dật, người làng Gia Miêu, huyện Tăng Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Cả hai cha con đều là võ tướng Đàng Trong của chúa Nguyễn, và từng đánh thắng quân Trịnh nhiều lần. Về sáng tác, Nguyễn Hữu Hào viết nhiều hơn cha. Tác phẩm của Nguyễn Hữu Hào còn lưu lại [và chỉ tình cờ được phát hiện đầu thế kỉ 20] là truyện thơ nôm Song tinh truyện. Thực ra, đây chỉ là một bản diễn Nôm của truyện Định tình nhân của một tác giả người Trung Hoa. Điểm đáng chú ý của Song tin truyện là những diễn tả hồn nhiên về mối quan hệt thầm kín trong đời sống vợ chồng, một điều được xem là cấm kỵ thời đó. Nó cũng là một chứng tích về sự phát triển của văn học ở Đàng Trong.

Trong số các tác gia được xếp vào nhóm "Nhà thơ" và "Nhà văn", phần lớn là các nhà thơ (19 người), và chỉ có 4 người có thể cho là nhà văn. Trong nhóm nhà thơ "chuyên nghiệp" gồm có (xếp theo niên đại): Lê Cảnh Tuân (? – 1416), Lê Đức Mao (1462 – 1529), Ngô Chi Lan (thế kỉ 15), Ngô Thì Ức (1709 – 1736), Ngô Thế Lân (1726 - ?), Hồ Xuân Hương (? - 1801), Nguyễn Hành (1771 – 1824), Phạm Thái (1777 – 1813), Nguyễn Huy Hổ (1783 – 1841), Nguyễn Miên Thẩm (1819 – 1870), Nguyễn Miên Bửu (1820 – 1854), Nguyễn Miên Trinh (1820 – 1897), Huỳnh Quỳ (1828 – 1926), Nguyễn Văn Lạc (1842 – 1915), Trần Cao Vân (1866 – 1916), Trần Tế Xương (1870 – 1907), Nguyễn Hàng (thế kỉ 16), Bà Huyện Thanh Quan (tức Nguyễn Thị Hinh), và Vũ Quốc Trân (thế kỉ 19). Những người được liệt kê là nhà văn gồm có: Trần Thế Pháp (thế kỉ 14), Linh mục Lữ Y Đoan (? - 1678), Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898), và Nguyễn Văn Cẩm (tức Kỳ Đồng, 1875 - 1926). Cần phải nói thêm rằng, như thấy trong danh sách này, do không xác định được chính xác năm sinh và nghề nghiệp chính, nên có thể một số người không sống bằng nghề chính là văn chương, mà có thể là quan chức hay hưởng bổng lộc triều đình (nếu là người thuộc hoàng tộc). Có thể nói trong danh sách này, không một ai sống bằng nghề chữ nghĩa cả.

Tác phẩm

Trong suốt từ năm 1101 đến cuối thế kỉ 19, các tác gia Việt Nam đã sáng tác hay biên soạn được 132 tác phẩm [5]. Tuy nhiên, chỉ riêng thế kỉ 19, có đến 68 tác phẩm (tức 51%); trước đó, số lượng rất khiêm tốn, như thế kỉ 18 có 22 tác phẩm, thế kỉ 16 và 17 có 14 tác phẩm, và phần còn lại (28 tác phẩm) trong suốt từ thế kỉ 12 đến thế kỉ 15.

Trong số 132 tác phẩm này, có 63 (hay 48%) được viết bằng chữ Hán, phần còn lại là chữ Nôm (62 tác phẩm, hay khoảng 47%) và Quốc ngữ (7 tác phẩm, hay 5.3%). Phần lớn tác phẩm viết bằng chữ Nôm chỉ xuất hiện khá nhiều kể từ thế kỉ 16 trở đi. Chẳng hạn như trong thời gian hai thế kỉ 16 và 17, có 14 tác phẩm (tức 64%), nhưng 9 được viết bằng chữ Nôm; tỷ lệ này giảm xuống còn 41% trong thế kỉ 18, nhưng tăng lên 63% trong thế kỉ 19.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng văn học chữ Nôm đã xuất hiện từ thế kỉ 13 hoặc sớm hơn nữa. Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An … là những tác gia dùng chữ Nôm đầu tiên, nhưng sáng tác tác của họ không còn lại bao nhiêu. Tác phẩm chữ Nôm xưa nhất của Việt Nam còn tồn tại cho đến ngày nay là Quốc Âm Thi Tập (1442, đời Lê) của Nguyễn Trãi. Tác phẩm này gồm có 254 bài thơ, trong đó có những câu thơ 6 chữ xen lẫn 7 chữ khá phổ biến. Cũng trong thế kỉ 15, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập là một thi phẩm khác còn tồn tại cho đến ngày nay. Thi phẩm này do vua Lê Thánh Tông và một số quan văn biên soạn. Sách gồm có 283 bài thơ, phần lớn được viết theo thể 7 và 8 chữ (thất ngôn bát cú), vịnh cảnh Tàu và Việt Nam, và ca ngợi triều đình.

Về các sáng tác bằng chữ Quốc Ngữ, trong thế kỉ 17, chỉ có một tác phẩm duy nhất, Phép giảng tám ngày (1651). Trong khi thế kỉ 18 vắng bóng tác phẩm Quốc Ngữ, thế kỉ 19 là giai đoạn "cực thịnh", với 6 tác phẩm được viết bằng chữ Quốc Ngữ: Sách sổ sang chép các việc (1822), Chuyện nước An Nam Đàng Ngoài chí Đàng Trong (1822), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi 1876 (1881), Thầy Larazo Phiền (1887), và Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896). Trong phần này còn phải kể đến tờ báo Gia Định báo (1865 – 1909) và tạp chí Thông loại khoá trình (1888-1889), có ảnh hưởng lớn đến văn chương chữ Quốc ngữ trong thế kỉ 19, nhất là nhất là tờ Gia Định báo. Cả hai ấn phẩm đều do Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) khởi xướng và làm chủ bút, riêng Gia Định báo cóthời do Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.

Một vài nhận xét

Đi tìm nguồn gốc tác phẩm và tiểu sử tác gia là một việc làm khó khăn, đòi hỏi người biên soạn phải am tường lịch sử và có sự hiểu biết sâu sắc về văn học. Để soạn cuốn TĐVHVN, soạn giả đã tham khảo các nguồn tài liệu chính như sách Đại Việt thông sử, Nghệ văn chí, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn; Văn tịch chú, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú; Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm; các tác phẩm nghiên cứu của Trần Văn Giáp, Đỗ Đức Hiểu, Trần Nghĩa; và các tạp chí nghiên cứu văn học, văn hoá, Hán nôm ... ở trong nước từ năm 1960 đến 1997. Qua cách viết và trình bày trong Từ điển, tôi cảm thấy soạn giả là những người cẩn thận và có một sự dè dặt cố hữu của người làm khoa học.

Phải nói ngay rằng cuốn Từ điển Văn học này không phải là một công trình hệ thống tất cả các tác gia và tác phẩm trước thế kỉ 20; nó chỉ là một tác phẩm mang tính giáo khoa (được ấn hành bởi Nhà xuất bản Giáo dục), mà đối tượng chủ yếu là sinh viên và học sinh. Vì thế, những tác gia và tác phẩm của họ được trình bày trong Từ điển này là kết quả của một sự lựa chọn có hệ thống, tức là soạn giả chỉ chọn những tác gia quen thuộc nhất mà thôi. Thực vậy, qua trao đổi cá nhân, nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có cho tôi biết nếu căn cứ vào cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ 10 đến giữa thế kỉ 18 của tác giả Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, và Mai Cao Chương (Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978), chỉ riêng đời Nhà Lý (thế kỉ 11) đã có hơn 40 nhà sư làm thơ; đời Nhà Trần và Hồ (thế kỉ 13-14), có hơn 60 tác giả ... Ngoài ra, theo cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, do Trần Văn Giáp chủ biên (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971), tổng cộng từ thế kỉ 11 đến cuối thế kỉ 19, có đến 735 tác gia sáng tác bằng chữ Hán và Nôm.

Tuy nhiên, dù các thông tin và dữ kiện trong TĐVHVN chưa đầy đủ, và có thể là chưa hoàn hảo, nhưng chúng cũng có thể cung cấp một bức tranh tổng quát về số lượng tác gia và tác phẩm thời trước thế kỉ 20 ở Việt Nam, nhất là những con số tương đối.

Nhưng dù không đầy đủ, một điều mà ai cũng có thể ghi nhận là số lượng tác gia Việt Nam, dù là 1000 người đi nữa, trong suốt 2000 năm lập quốc là một con số rất khiêm tốn. Thực ra, số lượng tác gia chỉ đông đảo kể từ thế kỉ 16 trở đi, chiếm khoảng 60% trong tổng số. Trong số này, phần đông là quan chức, vua chúa, tướng lãnh, và nhà sư . Ngay cả một số ít tuy mang danh hiệu là "Nhà thơ", nhưng trong thực tế chưa chắc là những người sống bằng nghề làm thơ, mà có thể là những quan chức hay ẩn sĩ. Chẳng hạn như ba anh em Nguyễn Miên Thẩm, Nguyễn Miên Trinh, và Nguyễn Miên Bửu, tuy danh hiệu là Nhà thơ, nhưng họ sống vì bổng lộc của triều đình, không phải bằng chữ nghĩa. Ngay cả Trương Vĩnh Ký, có lẽ là một người tận tụy nhất với chữ nghĩa thời thế kỉ 19, nhưng trước khi dấn thân vào viết sách báo, ông cũng từng làm thông ngôn, dạy học, và làm quan để sống.

Một lực lượng làm nghề văn chương bán chuyên nghiệp như thế có thể giải thích con số khiêm tốn về số lượng tác phẩm (132) của Việt Nam trong thời trước thế kỉ 20. Tính trung bình, mỗi thế kỉ cả nước chỉ có khoảng 7 tác phẩm. Và nếu tính theo số lượng cho mỗi tác gia, có thể nói năng suất còn quá thấp! "Năng suất" sáng tác cũng rất thấp. Suốt từ thế kỉ 12 đến 18, cứ 10 tác gia, Việt Nam có khoảng 3 tác phẩm. Tuy nhiên, đến thế kỉ 19, Việt Nam 78 tác gia và sáng tác được 68 tác phẩm đủ loại; tức là, năng suất có phần tiến bộ hơn các thế kỉ trước đó.

Nhìn qua nội dung các tác phẩm văn chương trong các thế kỉ trước, có thể nói là phần lớn những sáng tác chỉ nhắm vào ca ngợi thiên nhiên, quê hương, tình yêu, đạo đức làm người, tạp ghi, trào phúng, v.v. chứ chưa có những tác phẩm nào mang tính khai phá, hay đề xuất một tư tưởng mới. Về thể loại, phần lớn những sáng tác là thơ, rất ít sáng tác văn xuôi. Và phần lớn những sáng tác này cũng rất ngắn. Chưa có một tác phẩm nào của Việt Nam thời trước thế kỉ 20 với hàng chục ngàn câu thơ, mà phần đông chỉ là những bài thơ trung bình độ năm chục chữ. Tiểu thuyết trong thế kỉ 19 cũng chỉ gói gọn trong khoảng hai hay ba trăm trang.

Ngoài ra, mức độ lưu truyền các tác phẩm thời trước thế kỉ 20 chắc chắn là rất hạn chế, bởi vì số người biết đọc chữ Hán hay Nôm lúc đó chắc không nhiều. Chưa ai làm thống kê để biết có bao người biết đọc và viết chữ Hán hay Nôm thời đó, nhưng dựa vào khuynh hướng số người biết đọc và viết trong những năm đầu thế kỉ 20, có thể nói con số người thạo chữ Hán hay Nôm trước thế kỉ 20 chỉ khoảng 5% [6]. Vì thế, có thể nói rằng phần lớn những tác phẩm thời trước chỉ lưu truyền trong giới biết chữ. Những số liệu này cũng xác nhận những nhận xét của Nguyễn Hưng Quốc [7] rằng thời trước thế kỉ 20, văn học Việt Nam chủ yếu là một nền văn học tài tử.

Đại đa số các tác gia là nam giới, và điều này chắc cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì, vào các thế kỉ trước, nam giới được xã hội ưu tiên và do đó có cơ hội phát triển tài năng. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng ngay từ thế kỉ 12 và 13, nữ giới đã có mặt trên văn đàn Việt Nam qua sự đóng góp của Lê Thị Ỷ Lan và Ngô Chi Lan. Tất nhiên, trong các thế kỉ sau này, không thể nào không kể đến những Lê Ngọc Hân, Hồ Xuân Hương, và Bà Huyện Thanh Quan. 

Những số liệu tác gia trong bài này còn cho thấy một số định kiến người ta thường hay nghĩ có thể không chính xác. Chẳng hạn như Hà Nội thường được xem là thủ đô của ngàn năm văn vật, nhưng nếu tính theo số lượng các tác gia thì sự xưng tụng này không hẳn đúng. Thật vậy, chí tính trong số 276 tác gia trong Từ điển, chỉ có 12% là nguyên quán ở Hà Nội, thấp hơn con số của vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh (Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh) cộng lại. Nam Định cũng từng nổi tiếng là một vùng đất của văn học, nhưng trong thực tế, số lượng tác gia từ Nam Định còn thấp hơn các vùng đất khác như Hải Dương, Bắc Ninh, và Hà Tây.

Tuổi thọ trung bình của dân số Tây Âu vào các thế kỉ 12 đến 17 thường dưới 50 tuổi, thậm chí dưới 40 tuổi [8]. Tuy nhiên phần đông các tác gia Việt Nam thời trước thế kỉ 20 có tuổi thọ khá cao (trung bình 62 tuổi). Ngay từ thế kỉ 10 và 11, tuổi thọ trung bình của các tác gia là 72 tuổi! Điều này cho thấy các tác gia Việt Nam thời trước thuộc thành phần trung lưu và có thể hưởng nhiều đặc ân trong xã hội thời đó.

Tóm lại, trong suốt 2000 năm hiện diện cùng thế giới, Việt Nam có một lực lượng tác gia rất khiêm tốn. Trong số này, phần lớn là quan chức nam giới, thuộc giai cấp trung lưu, và quan trọng hơn, nghề nghiệp chính của họ không phải là hoạt động văn học. Những yếu tố này có lẽ là một lời giải thích về số lượng sáng tác rất nhỏ và phẩm chất cũng không mấy cao trong các thế kỉ trước. Cho nên, có thể nói rằng nền văn học Việt Nam trước thế kỉ 20 là một nền văn học vừa nghèo nàn, vừa mang tính nghiệp dư.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

1. Tạp san Việt, số 6, năm 2000.

2. Từ điển Văn học Việt Nam, do Lại Nguyên Ân biên soạn, có sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường. Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1999. Sách gồm 800 trang, khổ 14.5 x 20.5 cm.

3. Cũng như hầu hết các phân tích định lượng, trước hết tất cả các tác gia và các thông tin liên quan đến giới tính, quê quán, năm sinh và năm qua đời được đưa vào máy vi tính. Việc làm này (data entry) được kiểm tra một cách cẩn thận.

4. "Tác gia" ở đây là cụm từ dùng để chỉ những người viết văn, thơ, hay tác phẩm nghệ thuật.

5. "Tác phẩm" ở đây chỉ kể những công trình sáng tác được in ấn thành tập. Do đó, số lượng tác phẩm dùng để phân tích trong bài viết này không kể đến những bài thơ rải rác, dù còn lưu lại và biết đến sau này. Chẳng hạn như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, hay những bài thơ tương tự của nhiều tác gia khác không kể đến như là những đơn vị tính toán trong bài phân tích này. Những tác tác phẩm của sáng tác dân gian như An Dương Vương, Cây khế, Chàng Lía, Chu Mãi Thần, Đam Săn, Đẻ đất đẻ nước, Kim Nham, Liễu Hạnh, Ông Giống, Man Nương, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh, Tấm Cám, Trạng Quỳnh, Trầu Cau, và Tuần Ty Đào Quế cũng không dùng trong bảng thống kê.

6. Xem bài "Một nền văn học nghiệp dư" in trong cuốn Văn Học Việt Nam, Từ Điểm Nhìn H(ậu H)iệnĐại của Nguyễn Hưng Quốc, nxb Văn Nghệ, California, 2001, tr. 323-344.

7. Xem bài “Văn học trong một nước mù chữ” của Nguyễn Hưng Quốc, sđd, tr. 267-284.

8. Theo Clinics in Geriatric Medicine, số đặc biệt về tuổi thọ và quá trình lão hoá (Aging process), số 1, năm 1985, trang 15-29.
Read more ...

Mở cửa phóng khoáng: giáo dục

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013
Sáng nay, nhân dịp tiếp tục làm sạch máy tính cũ thì gặp bài này: Mở cửa phóng khoáng. Bài viết phản ánh cái nhìn về nền giáo dục VN của một phóng viên nổi tiếng người Mĩ. Bài này do tôi dịch từ một bài báo trên tờ FEER hơn chục năm trước đây. Ấy thế mà đọc lại vẫn thấy tính thời sự của nó. Tôi post bài này để chia sẻ cùng các bạn.
Mở cửa phóng khoáng (*)

Để trang bị cho thanh niên những kĩ năng cần thiết cho việc phát triển kinh tế, Việt Nam cho phép các cơ sở giáo dục nước ngoài vào đầu tư. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản vẫn nắm chặt dây cương.
Cũng như bất cứ nhà khoa học nào thiết tha muốn nhìn thấy quê hương mình vươn lên, bà Ngo Kieu Oanh, 52 tuổi , một nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia, đánh giá cao tư duy sáng tạo của các đồng nghiệp trẻ tuổi. Bà tin rằng tiềm năng sáng tạo của giới trẻ Việt Nam hiện nay đang bị hệ thống giáo dục đại học công lập cũ kĩ kiềm chế. Một hệ thống đại học mà trong đó giáo sư chỉ giảng dạy những bài học lỗi thời, và được trả bằng một đồng lương quá thấp, nên họ phải dạy thêm ngoài giờ để kiếm sống. Bà Oanh cho biết, ngay cả làm việc chung với các nhà nghiên cứu mới tốt nghiệp có khả năng nhất, bà vẫn “phải dạy họ từ căn bản.”

Cố nhiên, bà Oanh khao khát một cái gì tốt hơn cho cô con gái 18 tuổi của bà. Cô có nguyện vọng muốn trở thành một chuyên viên thiết kế website để đóng góp một phần vào việc phát triển công nghệ cao ở Việt nam. Thế nhưng bà Oanh sẽ không gửi con mình đi du học, vì bà hằng ưu tư là ái nữ của bà sẽ nhớ nhà, hay mất liên lạc với văn hóa Việt Nam. Đó là lí do tại sao bà và cô ái nữ dự phiên họp phổ biến thông tin do Trường Đại học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology) chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức. RMIT là một trường đại học nước ngoài với 100% vốn đầu tư từ ngoại quốc mở cơ sở đầu tiên ở Việt Nam. RMIT có tham vọng biến đổi hệ thống giáo dục cũ kĩ của Việt Nam, và qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Sau khi xem xét thông tin và cách dạy của RMIT, bà Oanh và cô ái nữ quyết định ngay một chương trình học cử nhân về khoa học ứng dụng, chuyên về công nghệ thông tin và đa truyền thông, với tổng chi phí là 7900 USD.

Ở một góc độ lớn hơn, RMIT đang đánh một canh bạc vào thị trường giáo dục đang phát triển ở Việt Nam, mà trong đó bà Oanh là một trong những đối tượng. Những phụ huynh như bà muốn trang bị cho con em mình kiến thức và kĩ năng cần thiết để gây dựng sự nghiệp trong một xã hội hiện đại đầy cạnh tranh. Ông Michael Mann, Chủ tịch RMIT ở Việt Nam, và cũng là cựu đại sứ Úc ở Việt Nam, nhận thức được thị trường giáo dục ở đây lớn hơn nhiều so với con số thu nhập trung bình 430 USD của cả nước. Nghiên cứu thị trường cho thấy giáo dục là một ưu tiên hàng đầu cho giới nhà giàu ở các thành phố, những người có một mức độ thu nhập dư thừa mà họ sẵn sàng đầu tư vào giáo dục cho con em họ. Những gia đình giàu có như thế rất e ngại với tỉ lệ không có việc làm khá cao trong số sinh viên tốt nghiệp đại học ở trong nước . Nhưng với mức học phí khá đắt đỏ ở ngoại quốc và tình trạng khan hiếm học bổng đang làm cho giới phụ huynh Việt Nam tuyệt vọng.

Nhưng đây không phải là một câu chuyện tiêu biểu của một quốc gia sẵn sàng tiếp nhận giáo dục từ nước ngoài, mà là một câu chuyện về một chế độ cộng sản bị nhu cầu kinh tế đẩy vào thế kẹt, đành miễn cưỡng mở cửa và đại trùng tu hệ thống đại học cổ lỗ sĩ. Đối với lãnh đạo Việt Nam, mối lo ngại căn bản là bất cứ một nỗ lực nào nhằm khuyến khích những nề nếp suy nghĩ mới đều có thể dẫn đến yêu cầu đòi hỏi thay đổi chế độ chính trị. Thành ra, một mặt Việt Nam tháo dỡ hết hệ thống kế hoạch trung ương, xóa bỏ hợp tác xã, và tư hữu hóa hệ thống y tế; thì mặt khác, Việt Nam vẫn muốn các trường đại học quốc gia nằm trong vòng cương toả.

Hành vi trói buộc này có thể bóp nghẹt tham vọng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam muốn tiến lên và ao ước muốn thành lập một nền kinh tế tri thức, chứ không muốn đơn thuần là một nguồn cung cấp lực lượng lao động rẻ mạt. Tham vọng này chỉ có thể thực hiện được với một hệ thống giáo dục hiện đại. Ông Thomas Vallely, thuộc Phân khoa Chính phủ học John F. Kennedy, Đại học Harvard, nhận xét: “Tôi thấy [giới lãnh đạo Việt Nam] đang ý thức được là giáo dục phải đi trước rồi đầu tư trực tiếp mới theo sau.”

Vì thế, Đảng hân hoan chào đón các dự án đầu tư giáo dục từ nước ngoài. Nhưng việc nỗ lực cải tiến giáo dục này tương đối mong manh và bất trắc. Các nhà đầu tư giáo dục ngoại quốc hiểu cái thông điệp ngầm của các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam: Xin cung cấp cho chúng tôi những kĩ năng thực tiễn về tin học, kinh tế, thương mại, và ngoại ngữ mà chúng tôi cần để cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa và thu hút đầu tư, nhưng hãy tránh xa những bộ môn lịch sử, văn học, nhân chủng học, hay bất cứ bộ môn khoa học xã hội nào mà có thể khuyến kích quá nhiều nghi ngờ trong những bộ óc còn non trẻ dễ bị dao động.

Một số quan chức trong chính quyền đánh giá cao các nỗ lực của những trường đại học nước ngoài như RMIT qua phương pháp giảng dạy thực tiễn, bằng ví dụ. Bằng cách tập trung vào các kỹ năng giải quyết vấn đề thực tế, thảo luận trong lớp thay vì những bài giảng giáo khoa khô khan, khuyến khích học trực tuyến (online learning), và trau dồi tiếng Anh, các trường như RMIT đang cung cấp một mô hình rất cần thiết cho Việt Nam. Ông Truong Song Duc, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chính Minh, nói: “Các trường đại học Việt Nam sẽ phải tự mình cải tiến để cạnh tranh với các trường nước ngoài.”

Về phần các trường đại học nước ngoài họ cũng vui lòng tập trung vào các bộ môn thương mại và công nghệ thông tin, bởi vì thị trường hiện tại đang nằm ở đó. Hàng năm, có đến 1.4 triệu học sinh trung học phải cạnh tranh nhau để vào được 168 ngàn chỗ trong các trường đại học công lập địa phương, và khủng hoảng thiếu về giáo dục quả là hiển nhiên. Một số trường khác đang có dự định nhảy vào thị trường Việt Nam, trong số này có Trường Đại học Công nghệ Swinburne của Úc. Trường này đang đầu tư vào một chi nhánh thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Một tổ hợp gồm các trường đại học công lập ở Pháp đang hợp tác với một nhóm nhà đầu tư người Việt hải ngoại để mở một trường đại học tư ở Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2004.

Việt Nam cũng cho phép các chương trình hợp tác giáo dục, mà trong đó, sinh viên trước hết học tại các trường đại học địa phương, và sau đó sẽ chuyển sang hoàn tất chương trình học ở các trường ngoại quốc. Vấn đề nổi cộm trong việc du học nước ngoài là các bậc phụ huynh lo ngại cái cảnh đem con bỏ chợ. Hiện nay, có khoảng 15 ngàn sinh viên Việt Nam du học, và những lời đồn đại về việc sao lãng học tập đã bắt đầu về tới bên Việt Nam. (Kể từ tháng 7, 2001 đến tháng 3, 2002, Úc đã huỷ 151 visa học sinh Việt Nam, vì những học sinh này không đến lớp học). Do đó, qua việc cung cấp cho học sinh một môi trường quen thuộc trong hai năm đầu đại học ở trong nước, các trường đại học cho rằng như vậy là đã trang bị cho sinh viên tư thế sẵn sàng đối mặt với các thử thách về tâm lí và tri thức khi ra nước ngoài.

Ít ra đó là một thông điệp sắc sảo của Ông Nguyen Ngọc My, một doanh nhân có thương vụ thường xuyên giữa Úc và Việt Nam, ông đang hỗ trợ việc thành lập một chi nhánh cho Trường Đại học Swinburne ở Bà Rịa – Vũng tàu. Ông thuật lại, “Tôi biết khoảng chục thanh niên ở Sydney và Melbourne. Cha mẹ chúng nhờ tôi chăm sóc. Nhưng làm sao tôi chăm sóc chúng được? Tôi cố gắng gọi điện thoại cho chúng và khuyên, ‘Cố gắng học hành đấy nhé, đừng có mà đi nhảy đầm,’ chúng thì ‘vâng, dạ’ cho qua chuyện. Thật là khó!

Đối với một số quan chức Việt Nam gửi con em ra nước ngoài học, vấn đề trở nên khó hơn, là phải tránh lời dị nghị của quần chúng bất bình. Họ chất vấn là làm sao mà các quan chức này lại có thể trang trải cho con cái kiểu học thời thượng như vậy được với một đồng lương nhà nước khiêm tốn như hiện nay. Mới đây, giới truyền thông trong nước tố cáo một sĩ quan công an đã nhận tiền hối lộ từ một tay trùm băng đảng xã hội đen ở miền Nam để gửi con du học ở Úc. Chính phủ Canada từ chối 40% đơn xin học của học sinh Việt Nam, phần lớn vì những mờ ám hay gian lận trong các chứng từ tài chính. Một viên chức tham vấn về giáo dục Canada nói, “Những phụ huynh này có thể họ có tiền thực, nhưng họ không chứng minh được, hay không muốn chứng minh [nguồn thu nhập của mình].
Mặc dù Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Ngân hàng Phát triển Á châu (Asian Development Bank) cho RMIT vay 15 triệu USD (trong tổng số 36 triệu cho công trình đầu tư), một số chuyên gia giáo dục cho rằng một việc cấp bách hơn là giúp đỡ Việt Nam để họ tự cải cách hệ thống giáo dục đại học. Mục tiêu tối hậu là nâng đỡ và nuôi dưỡng một thế hệ thanh niên, chứ không chỉ tập trung vào một thiểu số giàu có. Ông Vallely nói, “Nếu Việt Nam muốn trở thành một quốc gia hiện đại, Việt Nam cần một hệ thống đại học hiện đại.”

Ông Valleley khuyên Việt Nam theo con đường mà Trung Quốc đã đi. Trung Quốc từng chi ra hàng trăm triệu USD để nâng cấp hai trường đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa (Tsinghua), và đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế. Việt Nam, dù bực tức nhưng vẫn có ấn tượng về những thành tựu kinh tế của nước láng giềng, nên hẳn là sẵn sàng chịu lắng nghe. Mới đây, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm và các quan chức cao cấp gặp gỡ các nhà giáo dục hàng đầu từ các trường đại học Harvard, MIT, và Princeton, để nhờ họ cố vấn thiết lập những trung tâm khoa học công nghệ xuất sắc ("centres of excellence" in science and technology) tại một hay hai trường đại học hàng đầu của Việt Nam. Một số dự án tương tự cũng đã được thực thi ở các quốc gia như Chile, Mexico và Ba Tây, và hiệu quả đã thấy rõ: gia tăng các công trình nghiên cứu khoa học, và giảm đi tình trạng chảy máu chất xám.

Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề không chỉ ở tình trạng chảy máu chất xám, mà còn ở vấn đề không tận dụng được nguồn chất xám [du học] đã trở về nước. Theo giới khoa bảng địa phương, những sáng kiến mới thường bị nghi ngờ và ganh tị. Đề bạt chức vụ thường dành cho những người an phận thủ thường. Một số nhà khoa bảng Việt Nam cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang đang siết thêm dây cương, bằng cách thiết lập các chi bộ Đảng trong ngành khoa học và giáo dục, chuyển các chi bộ này dần từ vai trò lãnh đạo sang quản lí vi mô các hoạt động khoa học như thay đổi chương trình giảng dạy và xuất bản. Tháng Sáu năm nay, Thủ tướng chính phủ vừa ra chỉ thị đẩy mạnh việc giảng dạy lí thuyết Mác-Lênin cùng Tư tưởng Hồ Chí Minh trong tất cả các trường đại học, kể cả các trường ngoại quốc. (RMIT không dạy những môn này).

Tuy vậy, một điều ngạc nhiên là Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, một trường danh tiếng nhất trong nước, lại khai trương một chương trình thí điểm dạy môn Khoa học Chính trị, kể cả nghiên cứu về chính trị Mĩ! Và một số nhà trí thức, người Việt lẫn người ngoại quốc, vẫn lạc quan cho rằng trong thập niên tới những nhà khoa bảng trẻ về nước [sau khi du học ở các nước Tây phương] sẽ làm chuyển biến hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Nhà nhân chủng học người Mĩ, Charles Keyes, coi trường hợp cải cách giáo dục đại học ở Thái Lan như là một bằng chứng cho thấy Việt Nam cũng sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn. Ông nói, “Điều tất yếu sẽ xảy ra là xã hội sẽ có một quần chúng nghiêm túc gồm những con người mới với nề nếp suy nghĩ mới”.

Nói cho cùng, nếu Việt Nam theo đuổi chính sách kềm kẹp các bộ môn khoa học xã hội trong khi khuyến khích các bộ môn thương mại và công nghệ thông tin có thể sẽ gây ra phản tác dụng. Một chính sách lưỡng phân như thế không phù hợp với một nền kinh tế toàn cầu hóa, mà trong đó các kĩ năng phân tích đều cần thiết cho mọi ngành nghề. Trừ phi hiện đại hóa hệ thống giáo dục và tiến ra khỏi những lằn ranh cứng nhắc, Việt Nam sẽ phải chịu một số phận bi đát là không nuôi dưỡng được tiềm năng sáng tạo cần thiết để cạnh tranh trên trường quốc tế. Và, những ước mơ của phụ huynh như bà Oanh sẽ bị tiêu tan.

(*) Bài này được dịch từ bài viết “Open minds, open doors” của Margot Cohen, đăng trên Tạp chí Kinh tế Viễn đông (Far Eastern Economic Review), số ra Ngày 1 Tháng 8 năm 2002. Người dịch: Nguyễn Văn Tuấn.

Lời bàn của người dịch

Người Tây phương khi đến thăm Việt Nam đều ghi nhận một điều rằng Việt Nam là một nước có một nguồn nội lực rất lớn chưa được khai thác: con người Việt Nam. Nếu được khai thác, Seth Mydans, kí giả của tờ New York Times, cho rằng Việt Nam sẽ làm cho các nước Á châu khác phải tủi thẹn. Thực vậy, cái đức tính ham học của người Việt Nam gần như là một văn hóa, một đức tính rất đáng tự hào. Ở ngoại quốc, cái đức tính này đã được thể hiện một cách hùng hồn: chỉ sau 25 năm định cư, số lượng người Việt ở nước ngoài có trình độ đại học hoặc tương đương đã lên đến con số 300 ngàn (so với con số 1 triệu ở trong nước). Nhiều người ở trong nước xưa kia chỉ là những học sinh trung bình, thậm chí kém, nhưng khi ra nước ngoài, đã đạt được nhiều thành tích ngoạn mục trong các sân trường đại học hàng đầu ở Mĩ và các nước Tây phương khác. Điều này cho thấy học sinh Việt Nam ta có tiềm năng rất lớn, và nếu có cơ hội và môi trường thuận tiện, họ sẽ trở thành một đội ngũ chuyên viên có thể đóng góp quan trọng cho đất nước.

Tuy nhiên, ở trong nước, có thể nói thanh niên gặp trở ngại trên nhiều mặt, trong đó có vấn đề thiếu cơ hội và thiếu trường lớp. Nhiều thanh niên mất cơ hội theo học đại học vì không trúng cử (chứ không hẳn là học dở) trong các kì thi tuyển vào đại học, một cơ chế dùng để sàng lọc và hạn chế số người vào đại học do thiếu trường lớp và cơ sở vật chất. Hiện nay trong cả nước có 146 trường đại học và cao đẳng; trong đó, có 15 trường dân lập (do tư nhân quản lí), và ba trường bán công. Số lượng này hầu như không thay đổi trong thời gian gần đây.

Trong khi số lượng trường lớp bất biến, thì số lượng học sinh trung học, cứ 4 hay 5 năm, lại tăng gấp đôi. Hai khuynh hướng đối nghịch này sản sinh ra tình trạng quá tải. Các đại học không có khả năng nhận thêm sinh viên, và bắt buộc phải áp dụng những cơ chế thi cử khắt khe để hạn chế số lượng sinh viên. Hàng năm, các trường đại học chính qui ở Việt Nam chỉ có khả năng nhận vào khoảng 10% trong tổng số học sinh dự thi. Số lượng đi du học tự túc hay bằng học bổng chẳng là bao. Như vậy, có đến 90% học sinh có nguyện vọng theo đuổi đại học, nhưng lại không có điều kiện thực hiện ước mơ căn bản đó! Trong số 90% này, chắc chắn có nhiều học sinh giỏi. Có thể tin rằng nếu các học sinh này có cơ hội theo đuổi học tập như các em cùng lứa tuổi ở ngoại quốc, họ sẽ là những nhà khoa học, những nhà giáo tài giỏi trong tương lai.

Cộng với vấn đề thiếu thốn cơ sở đào tạo là vấn đề chất lượng đào tạo, và xuống cấp trong các trường hiện tại. Theo một nghiên cứu về kĩ năng tiếng Việt trong các sinh viên khoa ngữ văn năm 1997-1998 tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, trong số 752 sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ tư (những cử nhân văn chương tương lai), chỉ có 45% đạt yêu cầu về chính tả và 26% đạt yêu cầu về cú pháp. Trong một cuộc hội thảo với chủ đề "Toán, lý, hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" vào ngày 28/4/2000, một đại biểu của Hội Toán học Việt Nam đánh giá trình độ sinh viên tốt nghiệp trong nước như sau: "Có thể nói không quá đáng rằng, trình độ đại học hiện nay chỉ bằng đại học đại cương (hai năm đầu của đại học nước ngoài), cao học bằng đại học, và phó tiến sĩ chỉ bằng cao học".

Thành ra, hậu quả là sinh viên ra trường chưa đảm nhận được công việc mà đáng lẽ những người được đào tạo như thế phải làm được. Một viên chức người Việt thuộc Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) nhận xét: "Hệ thống GD-ĐT [giáo dục và đào tạo] lâu nay của Việt Nam còn bất cập. Tỉ lệ người được đào tạo ra đạt tiêu chuẩn quốc tế là rất ít. Mọi việc cứ diễn ra một cách bình thường. Chỉ khi nào những tiêu chuẩn quốc tế được "soi" vào, chúng ta mới giật mình. Thực tế là khi soi vào tiêu chuẩn của UNDP, hàng loạt cán bộ chuyên viên của Việt Nam đã không đáp ứng được điều kiện cần và đủ". Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo ở trong nước, hàng năm có khoảng 20.000 sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Trong số này, chỉ có 50% sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp; và trong số tìm được việc, chỉ có 30% tìm được việc đúng ngành nghề. Ngay cả những sinh viên đã tìm được việc làm, họ đều phải được huấn luyện lại, nhất là ở các công ti ngoại quốc. Theo nghiên cứu của bà Maureen Chao thuộc Trường Đại học Seattle (Mĩ), trong nhiều công ti liên doanh với Việt Nam, hầu hết sinh viên Việt Nam đều phải được đào tạo lại cả về chuyên môn lẫn kĩ năng giao tiếp!

Những vấn đề trên chẳng phải là mới, vì thực ra đã có vài nhà giáo dục tâm huyết ở trong nước cũng đã lát đát lên tiếng khuyến cáo, đòi cải cách giáo dục hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp trong vài năm qua. Điều đáng lo ngại là dù có khuyến cáo như thế, vẫn có người tuyên bố đại khái là nền giáo dục Việt Nam đã được quản lí tốt, và chế độ thi cử như hiện nay là "ưu việt rồi"! Tuy nhiên, chất lượng giáo dục đã và đang trở thành một đề tài thời sự. Thủ tướng Phan Văn Khải và cũng kiêm chức Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Giáo dục từng tuyên bố: “Cần khẳng định chiến lược giáo dục đào tạo 10 năm tới là chiến lược nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.”

Trong những bối cảnh và điều kiện này, sự kiện Trường Đại học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology) khai trương cơ sở đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh là một dấu hiệu tích cực cho giáo dục đại học trong nước. Trong tương lai một số trường khác cũng sẽ theo chân RMIT để thiết lập cơ sở đào tạo ở Việt Nam. Và trong chiều hướng đó, hoạt động và tổ chức của RMIT có thể là một mô hình hữu ích cho các trường đại học nước ngoài đang chuẩn bị tham gia vào thị trường giáo dục đại học ở Việt Nam.

Trong thực tế, so với con số vài trăm ngàn học sinh mong muốn vào đại học thì số lượng mà trường RMIT và các cơ sở đào tạo ngoại quốc sẽ giải quyết được (vài ngàn, hay vài mươi ngàn) chỉ là một con số rất khiêm tốn. Nhưng tác động quan trọng hơn mà những trường như RMIT có thể đem lại cho Việt Nam là nó có thể cung cấp một động cơ cải cách giáo dục đại học ở trong nước và qua đó nâng cao chất lượng giáo dục. Phương pháp giảng dạy và đào tạo của các trường như RMIT cũng có thể là một kinh nghiệm thực tế mà các trường đại học Việt Nam cần rút kinh nghiệm để tự mình hiện đại hóa và nâng cao chất lượng đào tạo, cũng như về lâu về dài, có đủ khả năng để cạnh tranh với các đại học trên thế giới.

Phát triển giáo dục đại học đã trở thành một quốc sách của Việt Nam trong thời kì đổi mới, và đó là một chính sách đáng được ủng hộ, khuyến khích. Trong thời đại kinh tế tri thức và trong môi trường cạnh tranh có tính toàn cầu, Việt Nam cần phải phát huy tiềm năng của trí tuệ của dân chúng, cần phải huy động nguồn nội lực trí tuệ để tránh khỏi bị lệ thuộc vào trí tuệ của người khác, hay tránh bị rơi vào tình trạng tụt hậu, nô lệ tri thức. Kinh nghiệm phát triển ở các nước trong vùng như Nam Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, Thái Lan, và Mã Lai cho thấy cái mẫu số chung là họ đã chú trọng vào giáo dục và đào tạo.

Tuy số lượng sinh viên Việt Nam đã gia tăng đáng kể trong thời gian qua (tỷ lệ sinh viên đã tăng từ 20/10.000 dân số vào năm 1988 lên đến 117/10.000 dân số vào năm 1999), nhưng tỉ lệ này không phải là cao so với các nước đang phát triển trong vùng. Sự có mặt của các trường ngoại quốc ở Việt Nam là một dấu hiệu đáng mừng, và góp phần nâng cao tỉ số sinh viên, cũng như tạo điều kiện và cơ hội cho thanh niên Việt Nam.

Read more ...

Science in Vietnam

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Sáng nay, dọn phòng và phải tiêu hủy một số dữ liệu, phim ảnh, v.v. thì phát hiện lá thư này, lá thư mà tôi viết và đăng trên Science từ năm 1998. Một chút bồi hồi. Mười lăm năm rồi, còn gì. “Mười năm không gặp, tưởng tình đã cũ”. Mười lăm năm rồi, tình hình hoạt động khoa học ở VN cũng đã khác đi nhiều, tốt có, không tốt cũng có.

Mỗi một bài báo và lá thư đều có một câu chuyện, và câu chuyện đằng sau lá thư này xuất phát từ một tự ái. Dạo đó (tôi đã đi Mĩ), Science có đi một loạt bài viết về tình hình hoạt động khoa học ở khối ASEAN, họ dành rất nhiều bài ca ngợi sự thành công của Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v. Nhưng điều đáng chú ý là Science không có một chữ nào cho Việt Nam. Thật ra, ngay cả hai chữ “Việt Nam” cũng không có trong loạt bài đó! Họ làm như Việt Nam không tồn tại ở Đông Nam Á. Tôi thử kiểm tra thì thấy lúc đó, VN cũng có công bố quốc tế, dù số công trình chỉ độ 200, còn rất khiêm tốn so với các nước trong vùng (như Thái Lan khoảng 1000 bài). Thế là tôi đã có “chất liệu” để viết một bài phàn nàn cho Science.

Tôi viết một bài ngắn, khoảng 1 trang A4 về với vài dữ liệu chung về khoa học Việt Nam. Có trình bày vài trường hợp tiêu biểu. Một tuần sau, Don Kennedy (lúc đó là tổng biên tập của Science) viết email lại với lời lẽ thân thiện đến bất ngờ! Thay vì “Dear Dr. Nguyen” như cách xưng hô xã giao của các tập san, ông ấy viết “Dear Tuan”, đọc là … mát dạ liền . Trong thư chính thức thì ông nói rằng Ban biên tập đã đọc lá thư và đồng ý đăng với điều kiện tôi phải giảm xuống 250
chữ hay ít hơn (tức là format của một “Letter to the Editor”).  Lá thư đó cuối cùng viết như sau:

“I read with interest the recent informative coverage of ‘Science in Southeast Asia’ (Special News Report 6 Mar. p 1465). However, I wish that Vietnam had been part of the survey/ While Vietnam is poor compared with other Southeast Asian countries, it has great potential. After years of war and isolation, Vietnam is only gradually becoming reitergrated into the world, but Vietnamese scientists have been making their presence known internationally for years. Despite enormous difficulties, including severe constraints in funding and inadequate infrastructure for research, Vietnamese universities have managed to produce fine mathematicians, physicists, medical researchers, agricultural experts, and engineers, many of whom are highly respected in their fields. The newly created Vietnam National University is expected to play a critical role in the future development of Vietnamese science.

Vietnamese scientists currently working in indudstrialized countries, particularly North America and Europe, have made important contributions in computer science, mathematics, aerospace engineering, chemistry, and medical research. They have also participated in space exploration in the astronaut program.

The Vietnamese have a tremendous love of higher education and a tremendous passion for learning. However, they have received sporadic assistance from the industrialized world. In view of Vietnam’s current reentry into the international community, it is now perhaps time for Vietnamese science to be given due attention.

Tuan V. Nguyen
Bone and Mineral Research Program
Garvan Institute of Medical Research
Darlinghurst, Sydney, New South Wales 2010 Australia”

Lá thư có ba đoạn văn, và cũng là 3 ý. Ý thứ nhất là phàn nàn rằng Science đã quên Việt Nam, và nói chung về tình hình khoa học ở bên nhà. Có một chút “biện minh” về tình trạng chiến tranh và bị cô lập sau chiến tranh. Đoạn 2 viết về đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài. Lúc đó, tôi đã có số liệu (chỉ trong ngành y) nếu tính tất cả công trình có tên người Việt ở nước ngoài, thì Việt Nam đã vượt qua Singapore và bỏ xả các nước làng nhàng khác. Đoạn này tôi có nói đến việc một nhà khoa học gốc Việt là phi hành gia (Eugene Trinh) nhưng không nhắc tên. Tôi không nhắc đến ông Phạm Tuân vì nghĩ chuyến đó hình như là “hữu nghị” chứ không phải khoa học thật sự. Đoạn 3 là nói rằng người Việt ham học, nhưng các nước giàu có không hỗ trợ. Đoạn này là đoạn “ăn tiền” nên phải để gần cuối .

Khi lá thư được đăng, tôi nhận gần 10 thư riêng từ nhiều người trên thế giới mà tôi không quen biết. Tất cả bạn đọc đều ủng hộ những ý trong lá thư. Có một lá thư của một bác sĩ quân y Mĩ viết rằng ông cũng rất ngạc nhiên tại sao Science lại bỏ quên Việt Nam, rồi ông khen ngợi các bác sĩ trong quân y Việt Nam tài giỏi như thế nào. (Dĩ nhiên là chỉ bác sĩ thời trước 1975 thôi.) Ông còn nhắc đến tên Giáo sư Nghiêm Đại Đạo nữa!


Bây giờ sau 15 năm, tình hình khoa học VN có gì mới không? Nếu chỉ dựa vào tình hình công bố quốc tế thì tôi phải nói là VN vẫn còn thua kém các nước khác. Chúng ta thử lấy Mã Lai làm ví dụ. Năm 1998, số bài báo khoa học của Mã Lai là 742 bài, cao hơn VN 3.2 lần. Đến năm 2012, số bài báo khoa học của Mã Lai cao hơn VN 4.6 lần (8152 / 1762). Nói cách khác, khoảng cách giữa Mã Lai và VN càng ngày càng xa. Nên nhớ rằng Mã Lai chỉ có 29 triệu, chỉ bằng 1/3 của Việt Nam (~90 triệu). Bộ KHCN đề ra chỉ tiêu tăng số bài báo khoa học 15% mỗi năm cho đến 2020. Nhưng tôi e rằng với tỉ lệ này thì VN sẽ mãi mãi theo sau các nước trong vùng, bởi vì các nước trong vùng hiện đang có tỉ lệ tăng trưởng 20% mỗi năm. Nhìn vào hệ thống tài trợ cho khoa học và bộ máy khoa học cồng kềnh, thú thật, tôi không mấy tự tin cho viễn cảnh khoa học của VN trong tương lai. Tôi chỉ biết hi vọng rằng mình sai.



Read more ...

Vấn nạn đạo văn

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013
Đây là vấn đề thuộc vào loại "biết rồi, khổ lắm ..." (Vũ Trọng Phụng") . Ấy thế mà tôi vẫn thấy cần thiết lên tiếng. Hôm qua, nhân dịp đọc luận án tiến sĩ (của một bác sĩ gửi tôi đọc và cho ý kiến), tôi thấy vài đoạn văn quen quen, và đọc đến phần cuối thì tôi phát hiện đó là những đoạn văn của tôi. Đó là những đoạn văn trong các bài báo đã đăng trên Thời sự Y học vài năm trước đây. Ngạc nhiên hơn, có những đoạn văn của tôi đăng trên báo phổ thông (như Tuổi trẻ) cũng được đưa vào luận án!

Cảm giác đầu tiên là tôi vui, vì thấy những công trình ở VN của mình được chú ý và tham khảo (nói theo tiếng Anh là có citation). Nhưng ngay sau đó là cảm giác buồn, vì em ấy không hề đề nguồn, không theo đúng với qui ước khoa học. Nói cách khác, em ấy đã "phạm tội" đạo văn. Cảm giác buồn dâng cao hơn khi sáng nay đọc một bài báo về một luận án tiến sĩ khác cũng đạo văn, và người đạo văn nay đã là một phó giáo sư đang giữ trọng trách trong một đại học. Những câu chuyện đạo văn và thăng quan tiến chức như thế xảy ra rất thường xuyên, với mật độ càng ngày càng cao hơn trên báo chí, làm cho người ta cảm thấy đạo văn đã trở thành một vấn nạn ở VN.

Đạo văn, theo cách hiểu của giới học thuật, được định nghĩa là sử dụng ý tưởng hay câu văn của người khác một cách không thích hợp. “Không thích hợp” ở đây có nghĩa chính là không ghi rõ nguồn gốc. Đặc biệt là việc trình bày những ý tưởng và từ ngữ của người khác trước các diễn đàn khoa học và công cộng như là ý tưởng và từ ngữ của chính mình. Ở đây, “Ý tưởng và từ ngữ của người khác” có nghĩa là: sử dụng công trình hay tác phẩm của người khác, lấy ý tưởng của người khác, sao chép nguyên bản từ ngữ của người khác mà không ghi nguồn, sử dụng cấu trúc và cách lí giải của người khác mà không ghi nhận họ, và lấy những thông tin chuyên ngành mà không đề rõ nguồn gốc.

Chẳng riêng gì ở VN, đạo văn còn rất phổ biến ở China. Mức độ phổ biến đến nổi giới học thuật Mĩ và China xem đó là một vấn nạn, làm cho China khó có thể sánh vai cùng các cường quốc khoa học và giáo dục trên thế giới. Ngay cả các nước tiên tiến, nạn đạo văn cũng khá phổ biến. Theo tập san Nature, trong một số ngành khoa học, nạn đạo văn (kể cả tự đạo văn) có thể lên đến 20% trong các bài báo đã công bố. Trước đây có người xem xét 660 bài báo đã công bố trên 3 tập san hàng đầu trong ngành phẫu thuật và phát hiện khoảng 12% bài báo có cấu trúc giống nhau, 3% sử dụng từ ngữ hoàn toàn giống nhau, và khoảng 8% sử dụng từ ngữ rất giống nhau. Hai tác giả còn phát hiện khoảng 14% các công trình nghiên cứu này thuộc vào loại “tự đạo văn” hay “tự đạo số liệu”.

Vấn đề đạo văn ở VN, theo tôi, còn có một chiều kích khác: thầy cô và hiểu biết. Có thể nói rằng một số thầy cô trung học và đại học ở VN không biết đạo văn là gì, và cũng chẳng am hiểu qui ước trích dẫn. Điển hình cho hiểu lầm về trích dẫn là phát biểu sau đây trên báo Người lao động: “Nguyên tắc nghiên cứu khoa học, khi đã sử dụng dù chỉ một từ vẫn phải có trích dẫn chữ dùng của ai.” Thật ra, không có nguyên tắc nào đòi hỏi người ta phải trích dẫn nếu sử dụng chỉ 1 từ cả, ngoại trừ đó là một thuật ngữ đặc biệt chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, có qui ước: khi dùng hay sao chép hơn 3 hay 4 từ liên tục từ một nguồn thì cần phải để trong ngoặc kép hoặc đề nguồn.

Một hiểu lầm khác về “giai tầng” học thuật và đạo văn. Có ý kiến cho rằng “Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành văn là luận án tiến sĩ không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công trình có học vị thấp hơn. Một luận án tiến sĩ mà dựa trên nghiên cứu, quan điểm của sinh viên thì khó chấp nhận.” Thật ra, không có qui định thành văn hay bất thành văn nào như thế. Rất nhiều tập san khoa học quốc tế không cho phép tác giả đề học vị và chức danh. Do đó, một công trình nghiên cứu trên tập san khoa học như thế, làm sao chúng ta biết tác giả đó có bằng cử nhân hay tiến sĩ? Thật ra, khoa học rất bình đẳng trong tri thức, và trích dẫn trong khoa học không phân biệt đẳng cấp và học vị của tác giả của nguồn thông tin.

Thầy cô mà còn chưa am hiểu vấn đề đạo văn thì chúng ta khó trách trò. Quay lại trường hợp tôi nêu trên, điều làm tôi ngạc nhiên là em bác sĩ ấy đạo văn từ những công trình của tôi, mà chính lại gửi cho tôi đọc! Điều này có thể nói lên rằng em ấy không hiểu đạo văn là gì, hay nghĩ tôi không để ý. Nhìn một cách rộng lượng hơn, có thể em ấy chẳng hiểu đạo văn là gì, nên phạm lỗi. Cũng có người thành thật hơn, nói rằng vì câu văn gốc của tác giả (tiếng Anh) hay quá nên không biết viết lại sao cho đủ ý. Dĩ nhiên, sự khó khăn đó không thể biện minh cho đạo văn, vì đạo văn được xem là một scientific fraud.

Đối với những người than phiền không có cách nào diễn giải ý tưởng của người trước tốt hơn, tôi thường chỉ ra vài mẹo. Những mẹo này chưa chắc làm cho câu văn tốt hơn, nhưng sẽ không vướng phải tội đạo văn. Thông thường tôi khuyên đương sự vài mẹo diễn tả ý tưởng như sau:

(a) Thay đổi vị trí từ ngữ trong câu văn. Chẳng hạn như nếu người ta dùng chữ before, thì mình thay thế bằng những chữ có nghĩa gần với chữ gốc, như previously, beforehand, prior, in the past, v.v.

(b) Thay đổi thể văn chủ động (active) sang thụ động (passive), hay ngược lại. Nếu người ta viết “Optimizing peak bone mass during the early years is thought to be a key factor in preventing osteoporosis later in life” thì mình có thể viết lại theo thể chủ động “To prevent postmenopausal osteoporosis, several experts consider that it is important to build bone mass during adolescence”, và dĩ nhiên không quên đề nguồn.

(c) Nếu câu văn gốc hơi dài, thì mình chia câu văn thành nhiều câu văn ngắn, và viết lại theo ý tác giả.

Mặc dù ở đâu cũng có đạo văn, cái khác nhau là cách giải quyết và xử lí vấn đề. Nếu là bài báo khoa học đã công bố thì tập san có thể rút bài báo xuống. Nếu là luận án thì nghiên cứu sinh phải viết lại. Nhưng cũng có vài trường hợp có kết quả xấu. Năm 2004, một trường hợp đạo văn gây sự chú ý trong giới khoa bảng vì thủ phạm là một giáo sư thuộc một trường đại học danh giá nhất thế giới: Đại học Harvard. Sultan là một giáo sư miễn dịch học tại trường y thuộc Đại học Harvard đạo văn từ 4 bài báo của các nhà khoa học khác, và bị phát hiện khi bài báo của ông được bình duyệt. Sau khi điều tra, ông bị cấm làm chuyên gia bình duyệt (reviewer) các báo cáo khoa học trong vòng 3 năm. Tất nhiên, sự việc cũng gây ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông. Một trường hợp gần đây nhất cũng làm xôn xao dư luận báo chí vì sự việc lại xảy ra tại Đại học Harvard. Kaavya Viswanathan là một sinh viên gốc Ấn Độ, 19 tuổi, có tài viết văn, và được xem là một ngôi sao đang lên với đầy triển vọng qua cuốn tiểu thuyết “How Opal Mehta Got Kissed, Got Wild, and Got a Life”. Nhưng ngay sau khi xuất bản, người ta phát hiện cuốn tiểu thuyết có nhiều đoạn “trùng hợp” hay lấy từ hai cuốn tiểu thuyết “Sloppy Firsts” (in năm 2001) cuốn “Second Helpings” (in năm 2003) của Nhà văn Megan F. McCafferty. Hệ quả là cô nhà văn trẻ tuổi này mất một hợp đồng 500.000 USD với một nhà xuất bản khác, và không cần phải nói thêm, sự nghiệp viết văn của cô coi như chấm dứt.

Còn ở nước ta trong mấy năm gần đây, nạn đạo văn cũng được giới báo chí nhắc đến rất nhiều lần, nhưng phần lớn các trường hợp này thường xảy ra trong lĩnh vực văn học. Trong nghiên cứu khoa học, nạn đạo văn có liên quan đến những giảng viên và giáo sư cũng được nhiều nghiên cứu sinh đồn đại qua lại, nhưng chưa có bằng chứng hiển nhiên. Có trường hợp đạo văn khá hi hữu vì sự đạo văn cực kì trắng trợn và … thô. Năm 2000, hai tác giả nguyên là nghiên cứu sinh Việt Nam tại Nhật và một tác giả người Nhật công bố bài báo có tựa đề là “Ship’s optimal autopilot with a multivariate auto-regressive eXogenous model” trong hội nghị về ứng dụng tối ưu hóa tại Nga. Đến năm 2004 bài báo đó được xuất hiện trong một hội nghị cũng về ứng dụng tối ưu hóa tại Nhật nhưng với một tựa đề na ná “An optimal ship autopilot using a multivariate auto-regressive exogenous model” với 10 tác giả từ Việt Nam! Điều khó tin là 99% câu chữ, 100% các số liệu, thậm chí hình ảnh con tàu Shioji Maru trong bài báo năm 2004 lấy nguyên vẹn từ bài báo năm 2000. Khi tác giả bài báo gốc liên lạc với các tác giả bài báo năm 2004 để tìm hiểu thêm nguyên do và lời giải thích, thì sự việc rơi vào im lặng. Báo chí hôm nay lại nêu một nghi án đạo văn liên quan đến một phó giáo sư, nhưng hình như vấn đề cũng chẳng có ai giải quyết và có thể lại rơi vào im lặng.

Riêng trường hợp của em bác sĩ, tôi chỉ viết thư riêng cho em ấy nhắc nhở em nên ghi nguồn dữ liệu và cố gắng viết lại ý tưởng bằng câu chữ của em. Tôi thấy không cần phải gây ồn ào làm gì, vì em ấy còn nhiều cơ hội để học hỏi. Không ai biết tình trạng đạo văn trong các đại học ở VN phổ biến như thế nào, nhưng chắc chắn là nhiều (trên 10% luận văn và luận án?). Nếu VN muốn trở thành một “actor” trên trường khoa học quốc tế thì cần phải có biện pháp và chiến lược ngăn ngừa đạo văn ngay từ bậc tiểu học.
 
Read more ...

Một kiểu miệt thị khó chấp nhận

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Thoạt đầu tôi không để ý đến bài báo này (viết về "tại sao gái miền Tây làm nghề nhạy cảm"), nhưng thấy Pv Lê Ngọc Sơn đưa vào fb và thấy các bạn bàn luận tôi mới đọc qua cho biết. Đọc xong tôi thấy đây là một bài báo có rất nhiều điểm đáng bàn. Đáng bàn không phải vì sự thật (đúng ra là tính hư cấu) trong bài báo, mà là khả năng nhận thức của người viết bài báo. Có nhiều câu chữ mang hơi hám khoa học nhưng thật ra là phi khoa học. Đáng lẽ toàn bộ bài viết phải gọi là “ngụy khoa học” thì đúng hơn. Tính nguỵ khoa học (pseudoscience) trong bài này nó bàng bạc trong các thói nguỵ biện phổ biến.


Cái nguỵ biện thứ nhất là nói bâng quơ. Chẳng hạn như câu “con gái miền Tây đi làm những nghề nhạy cảm như massage, tiếp viên… nhiều hơn những con gái miền khác. Thật ra, tôi cũng có thể nói khơi khơi thế này: “con gái miền Tây đi làm công nhân trong mấy hãng xưởng ở Bình Dương và Long An nhiều hơn con gái miền khác”. Tôi nói thế là vì tôi hay đi đến những hãng xưởng đó và có cảm nhận như thế. Còn những người hay đi uống bia ôm và massage thì thấy gặp con gái miền Tây nhiều, nên có cảm nhận như thế. Ở Sydney trong thời gian gần đây, báo chí nêu tình trạng một số người Việt ăn trộm trong các siêu thị sang trọng và mang bạch phiến từ VN sang Úc, mà đa số là người gốc Bắc (1975). Nếu dùng cách nói như tác giả bài này người ta sẽ nói người Bắc hay buôn ma tuý và ăn trộm?! Cách suy luận đó có thể hấp dẫn với những ai có suy nghĩ dễ dãi, chứ khó thuyết phục người suy nghĩ nghiêm chỉnh. Khó thuyết phục vì nó vô lí và xúc phạm. Để thấy sự vô lí, có thể lấy thêm một ví dụ: người ta thấy nhiều người mắc bệnh tả có thói quen ăn thịt chó, thế là người ta nghi rằng thịt chó là nguyên nhân bệnh tả. Nhưng câu hỏi quan trọng hơn là so sánh giữa bao nhiêu người ăn thịt chó mắc bệnh tả, và bao nhiêu người không ăn thịt chó mắc bệnh tả. Bài học thứ nhất ở đây là: nói một chiều và không có nhóm chứng (control) là phạm phải lỗi nguỵ biện. 

Thứ hai là nguỵ biện thống kê. Tiêu biểu cho nguỵ biện này là câu khẳng định “Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên”. Đây là một câu phát biểu rất khoa học, vì không phải ngẫu nhiên, tức là có hệ thống. Cái lỗi hệ thống mà tác giả này chứng minh trong mấy đoạn sau là do con gái miền Tây hay đua đòi, thất học, và do đó suy nghĩ đơn giản (dễ bị chiêu dụ). Quan trọng là chữ “ngẫu nhiên”. Nếu tác giả chỉ đọc vài bài báo thấy ai cũng nói con gái miền Tây đua đòi và còn thất học, tác giả đã bị người khác cấy vào não cái ý tưởng rằng con gái miền Tây quả thật hay đua đòi và thất học. Nhưng có thể đó chỉ là ý kiến cá nhân của vài kí giả, chứ chẳng có dữ liệu gì để đi đến một kết luận nghiêm chỉnh. Vài kí giả thì có thể chỉ là ngẫu nhiên (có thể họ hay đi nhật nhẹt trong các quán bia ôm), nên khó mà nói mang tính đại diện được. Do đó, đáng lí ra, để chứng minh không phải là ngẫu nhiên, tác giả phải trình bày vài dữ liệu để thuyết phục độc giả. Hay hơn nữa, tác giả có thể tính toán (như trị số P) để độc giả thấy. Khi các kí giả có trình độ khá đưa tin về vaccine phòng chống HIV bên Thái Lan, người ta trình bày trị số P = 0.04 để cho thấy hiệu quả đó không phải là ngẫu nhiên. Nhưng tôi ngờ rằng tác giả bài này khó mà tính được trị số P, mà có tính được thì chắc gì đã hiểu. Lỗi nguỵ biện thứ hai ở đây là hồ đồ. 

Thứ ba là tác giả đi từ võ đoán này đến võ đoán khác. Sau khi cho rằng “nhiều người” (lại “nhiều”!) miền Tây “cực kì cưng chiều con gái”, tác giả đi đến một phán xét rằng “Thế nên, ngay từ nhỏ, con gái miền Tây đã không phải lao động dãi nắng, dầm mưa, quá lắm chỉ là làm các công việc nội trợ trong gia đình.” Cái này là rõ ràng một sự võ đoán. Là bậc cha mẹ ai không cưng chiều con, đặc biệt là con gái. Đáng lẽ phải thấy đó là một điểm son chứ, để phân biệt với loại người (phải dùng chữ “loại”) trọng nam khinh nữ. Nhưng cưng chiều không có nghĩa là ở nhà suốt ngày lo mài dũa móng tay, bôi son, trét phấn như mấy cô gái thị thành đua đòi. Tôi có thể lấy gia đình tôi ra làm ví dụ. Mấy em gái của tôi vẫn làm ruộng. Thật ra, hầu hết những người gặt lúa, cấy lúa ở miền Tây là phụ nữ. Có lẽ tác giả bài này chưa sống ở miền Tây nên nói quá bậy. (Chữ "bậy" ở đây là còn nhẹ, tôi có thể dùng chữ nặng hơn, nhưng có lẽ không cần thiết). 

Cũng nằm trong cái lỗi võ đoán, tác giả phóng bút viết rằng “Chỉ cần quăng tay lưới hoặc cắm cây xuống lớp đất màu mỡ, họ sớm nhận được thành quả mà ít phải bỏ công sức hơn nơi khác.” Nếu tác giả này được đẻ ra vào thế kỉ 19 hay đầu/giữa thế kỉ 20 thì câu này có thể tạm chấp nhận được, nhưng đây là thế kỉ 21, tình trạng nông thôn đã có nhiều đổi thay (theo chiều hướng xấu đi) nên không có chuyện quang lưới xuống sông là có cá ăn đâu nhé. Có lẽ tác giả hoặc là đang nằm mơ giữa ngày (day dreaming), hoặc là đang “phê” những cuốn sách của bác Sơn Nam nên mới bạo tay gõ bàn phiếm như thế. Viết mà không đi thực tế thì chẳng khác gì – nói theo cách nói của dân miền Tây – nói dóc, tào lao. 

Thứ tư là nguỵ biện theo kiểu lợi dụng trường hợp cá biệt. Đó là câu “Có thể thấy, lối suy nghĩ của nhiều cô gái miền Tây khá đơn giản, mộc mạc. Những phát ngôn “kinh điển” của Ngọc Trinh, người đẹp đến từ Trà Vinh, là ví dụ tiêu biểu nhất.” Phải nói đây là một câu phát biểu ngờ nghệch nhất mà tôi thấy từ một nhà báo! Lấy một trường hợp cá biệt để đi đến kết luận cho một cộng đồng là một sai lầm, một nguỵ biện thấp nhất. Nguỵ biện này chẳng khác gì lấy một cô hoa khôi nào đó ở Hà Nội giết tình nhân, rồi suy luận rằng gái Hà Nội là ác ôn! Dùng cách nói của nhà báo này, con gái miền Tây cũng có thể nói rằng nhà báo Việt Nam rất dốt nhưng ngạo mạn làm bộ như ta đây là những người đạo cao đức trọng - một kiểu đeo mặt nạ đạo đức giả. 

Toàn bộ bài báo toát lên một cái “air” trịch thượng và xúc phạm. Hầu như đoạn văn nào trong bài viết cũng có vấn đề. Hoặc là vấn đề dùng chữ mỉa mai, hoặc là cách nói kẻ cả, hoặc là võ đoán, hoặc là nguỵ biện. Có những câu trong bài hoàn toàn võ đoán như “Hiện tại, ở miền Tây, một chàng trai muốn cưới được vợ phải có ít nhất 60 triệu đồng. Bởi ngoài tiền cưới, chàng trai phải có nhiệm vụ mua lễ vật vòng vàng nhẫn cưới cho vợ và gia đình vợ.” Có phải thật sự là 60 triệu? (Thằng cháu tôi mới lấy vợ và nó chỉ có 10 triệu đồng trong túi). Có phải thật sự đó là đặc điểm ở miền Tây? Một con người chỉ cần cái bộ não bình thường cũng có thể đặt hai câu hỏi đó, và khi biết đặt câu hỏi đó thì tác giả sẽ thấy vô lí và xúc phạm như thế nào. Rất khó biết tác giả có thực sự cố ý xúc phạm phụ nữ miền Tây hay không, nhưng cách dùng chữ và cách vận dụng logic thì rõ ràng là có nỗ lực. Nỗ lực xúc phạm cả một cộng đồng. Đừng nghĩ dùng chữ “một số” hay không dùng chữ đó mà không xúc phạm.   

Có lẽ câu xúc phạm nhất là câu này: “Có thể thấy, lối suy nghĩ của nhiều cô gái miền Tây khá đơn giản, thoáng đãng, bản năng.” Chú ý chữ “bản năng”. Phải là một người có nhiều thành kiến ghê gớm lắm mới dám đặt tay viết hai chữ đó. Tôi nghĩ những cô gái miền Tây cũng có thể mượn cách nói xúc phạm và hồ đồ đó để trả hai chữ đó cho tác giả: bản năng nói xấu.

Hết “bản năng”, tác giả còn phán thêm rằng con gái miền Tây “suy nghĩ đơn giản”. Đó là một cách nói trịch thượng. Chẳng biết tuổi đời của tác giả này bao nhiêu mà khẩu khí có vẻ như là bề trên. Thật ra, ngay cả bề trên cũng không dám nói như thế. Ở một đoạn khác, tác giả tỏ ý chê con gái miền Tây là thật thà và chất phác, nhưng nếu con gái miền Tây ăn diện thì bị cái chê khác: “ăn nói bạt mạng, ăn chơi tung trời và mặc đồ mát mẻ hơn bất cứ cô gái thành thị nào.” Làm như chỉ có con gái thành thị (như tác giả bài báo?) mới có quyền mặc đồ mát mẻ! Nếu ăn nói bạt mạng thì chính tác giả bài báo mới xứng đáng với cái nhãn hiệu đó.

Nên nhớ rằng miền Tây là nơi cả nước dựa vào về mặt lúa gạo và cũng là nơi nuôi Việt Nam. Trong số những người làm ra hạt lúa để nuôi cả nước, có phân nửa là lao động nữ. Ấy thế mà có người vô ơn đến nỗi viết hẳn một bài báo để nói rằng con gái miền Tây lười biếng, thất học, và dễ tin! Nếu tác giả thật sự nghĩ như thế, thì đáng lẽ tác giả nên chịu khó suy nghĩ và đặt câu hỏi “tại sao”. Tại sao người dân miền Tây ít học? Tại sao người dân miền Tây bỏ làng đi làm thuê ở Bình Dương? Tôi nghĩ nếu tác giả tìm được câu trả lời thì có lẽ tác giả sẽ cảm thấy xấu hổ với những nhận định của mình, và nợ người dân miền Tây một lời xin lỗi. Dĩ nhiên, xin lỗi chỉ tồn tại ở những người có nhân cách. 

Người Tây phương có câu “In God we trust, all others must bring data” (có thể hiểu câu đó là: chỉ có Thượng đế là đáng tin, còn tất cả những cái khác phải dựa trên dữ liệu). Hình như là câu nói của Edward Deming, người đem khái niệm quality control đến kĩ nghệ xe hơi của Nhật. Để đi đến kết luận về một cộng đồng, người ta cần chứng cứ. Chứng cứ có thể là định tính, nhưng tốt hơn nữa là định lượng đàng hoàng. Có lần nói chuyện ở Thời báo Kinh tế Sài Gòn (thời ông Võ Văn Kiệt còn sống) tôi có nói về evidence based journalism mà tôi tạm dịch là “Báo chí thực chứng” (giống như y học thực chứng). Theo đó, phóng viên nên dựa vào chứng cứ mà viết thì tốt hơn là dựa vào những cảm nhận cá nhân.

Nói không có chứng cứ là nói dóc. Nói dóc, nói chuyện tào lao là chuyện của dân nhậu nhẹt. Rượu vào lời ra mà. Chẳng ai thèm để ý đến những lời nói dóc của những người say men rượu. Nhưng nhà báo, dù gì cũng mang danh là “có học”, mà nói dóc thì đáng trách, nếu không muốn nói là đáng kinh tởm. Khoảng cách thái độ từ kinh tởm đến khinh bỉ chẳng bao xa. Tác giả bài này cho rằng con gái miền Tây suy nghĩ đơn giản, nhưng những phân tích trên đây cho thấy thấy chính tác giả mới là người suy nghĩ đơn giản. Suy nghĩ đơn giản là biểu hiện của sự yếu kém về trình độ và nhận thức. Suy nghĩ đơn giản còn thể hiện sự lười biếng tư duy. Dù lí do gì đi nữa thì những nhận định trong bài viết của tác giả cũng đáng trách. Bài báo cũng là một trường hợp để phân biệt cách làm báo tử tế và cách làm báo bất lương.


Read more ...