Pages

Sự chênh lệch của những bản án

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013
Thế là cô hoa hậu Võ Mỹ Xuân, người bị tội bán dâm và môi giới bán dâm, bị phạt 30 tháng tù. Đọc tường trình của giới báo chí và nhìn qua những bức hình trong phiên toà, tôi thấy phiên toà của Mỹ Xuân rất khác với các phiên toà liên quan đến Trần Huỳnh Duy Thức, Cù Huy Hà Vũ, và Phương Uyên. Những phiên toà liên quan đến chống Tàu, thì cảnh sát dày đặt, sóng điện thoại bị mất một cách huyền bí, loa bị rè một cách khó giải thích, hay khi bị cáo lên tiếng nói thì loa có khi bị mất tiếng, v.v. Nhưng phiên toà liên quan đến sex thì tất cả những “yếu tố nhiễu” trên đều không có. Phóng viên chụp hình thoải mái. Những phiên toà liên quan đến chống Tàu thì báo chí chỉ đưa tin sau khi tuyên án, còn phiên toà liên quan đến sex thì báo chí đưa tin rầm rộ trước và sau khi tuyên án. Những khác biệt rất thú vị này cho thấy Nhà nước VN vẫn còn rất “tế nhị” với những vụ án chống Tàu và rất thoải mái với sex, có lẽ sex vui hơn chống Tàu. 

Tôi tò mò làm một bảng so sánh về thời gian ngồi tù của những người được báo chí nhắc đến nhiều trong thời gian qua thì thấy như sau: 

Võ Mỹ Xuân (bán dâm): 2.5 năm tù. 
Nguyễn Thanh Thuý (bán dâm): 2.5 năm tù 
Nguyễn Thuý Hằng (bán dâm): 3 năm tù 
Sầm Đức Sương (mua dâm): 9 năm tù 
Nguyễn Trường Tô (mua dâm): 0 năm tù – thật ra ông này không ra toà. 
Ngô Tuấn Dũng (hiếp dân): 2 năm tù 

Trần Huỳnh Duy Thức (chính trị): 16 năm tù 
Nguyễn Tiến Trung (chính trị): 7 năm tù 
Cù Huy Hà Vũ (chính trị, chống Tàu): 7 năm tù 
Nguyễn Phương Uyên (chống Tàu): 6 năm tù 
Đinh Nguyên Kha (chống Tàu) 10 năm tù 

Phạm Thanh Bình (kinh tế): 20 năm tù giam 
Huỳnh Ngọc Sĩ (kinh tế): 20 năm tù giam 

Trương Ngọc Quyền (trộm vịt): 5 năm tù
Vy Hoàng Bảo Hưng (trộm vịt): 4 năm tù
Vy Kim Long (trộm vịt): 4 năm tù
Thân Văn Vĩnh (trộm trâu): 14 năm tù
Lê Văn Quyền (trộm trâu): 14 năm tù
Bùi Xuân Hương (trộm trâu): 12 năm tù

Bảng trên cho thấy một vài xu hướng thú vị. Tội kinh tế hình như bị phạt nặng nhất. Người mang tội bán dâm có thời gian ngồi tù ngắn hơn những người mang tội chính trị và kinh tế. Đặc biệt là chống Tàu cũng là một tội, và hai sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị phạt tổng cộng 16 năm tù! Chống Tàu có án phạt nặng hơn ội bán dâm. 

Nhưng ngạc nhiên là ăn cắp vịt (để nhậu) mà tội còn nặng hơn cả tội bán dâm. Đó trường hợp của 3 người tên Quyền, Bảo và Long, bị phạt tổng cộng 13 năm tù. Do đó, báo chí có lần kêu lên rằng “một con vịt đổi 132 tháng tù giam”. Ăn cắp trâu tội thậm chí còn nặng hơn ăn cắp vịt, có người bị phạt đến 14 năm tù! 

Dĩ nhiên, những con số trên đây không nói lên hết tình tiết và hoàn cảnh đằng sau mỗi vụ án và những qui định của luật pháp. Nhưng những con số trên đây cho thấy mức độ án phạt của toà án Việt Nam có vấn đề, vì khoảng cách quá lớn giữa các hình phạt, đặc biệt là tội trộm cắp. Ở nước ngoài, những khác biệt về án phạt được gọi là sentencing disparity, và là một đề tài nghiên cứu của giới khoa học xã hội. 

Ở Mĩ, ngay cả cùng một ông chánh án và cùng một tội danh và tình tiết mà mức độ án phạt cũng khác nhau từ 6-12 tháng! Mức độ khác biệt giữa các chánh án thì còn lớn hơn nữa. Có người thốt lên rằng khi phạm nhân ra toà thì mức độ phạt cũng chịu tác động bởi yếu tố ngẫu nhiên. Yếu tố ngẫu nhiên có thể là do tâm tính, suy nghĩ, quan điểm, v.v. của người xử án ngay thời điểm xử hay đơn giản là con người “nhân vô thập toàn”. Ở Mĩ mà còn như thế thì ở VN, nơi mà các chánh án và luật sư chưa được đào tạo bài bản và toàn là người của đảng, thì các “yếu tố ngẫu nhiên” chắc còn có tác động kinh hơn nữa, và hệ quả là phạm nhân phải chịu bất công. Chưa thấy ai làm nghiên cứu (như ở ngoài này) về mối tương quan giữa mức độ phạt tù và tội phạm, và tính reproducibility (độ tin cậy, tái lập) của các chánh án. Tôi nghĩ một phân tích như thế rất cần thiết và có thể cung cấp những dữ liệu dẫn đến cải cách.

Read more ...

Lan man chuyện báo chí … bán dâm

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013
Ở các nước phương Tây, người ta có câu “sex sells”. Hễ cái gì liên quan đến dục tính (sex) hay có một chút dâm là cái đó sẽ được bán chạy. Báo chí cũng thế, số nào có bài liên quan đến sex là bán chạy. Ở Việt Nam tôi thấy cũng có xu hướng sex sells. Mấy ngày qua, mở bất cử tờ báo mạng nào cũng thấy những bản tin, những câu chuyện liên quan đến hoa hậu Mỹ Xuân, người mới bị buộc tội bán dâm và phải ngồi tù 30 tháng. Nhưng điều đáng nói ở đây là Mỹ Xuân vừa là đối tượng mà cũng bị biến thành nạn nhân của những người chạy theo phong trào sex sells. Một buổi sáng bức xúc nên phải viết vài dòng để làm nhật kí.

Một trong những thói quen mỗi sáng của tôi (như sáng nay) là dạo qua một vòng báo chí mạng xem những “tin đọc nhiều nhất”. Không phải tôi đọc những tin đó, mà để xem người ta chú ý đến cái gì nhiều nhất. Biết được xu hướng này cũng cho chúng ta một vài ý niệm về trình độ dân trí và trình độ báo chí. Tôi thấy một cách nhất quán là người đọc báo (ít ra là báo mạng) ngày nay hay quan tâm đến những sự việc liên quan đến bạo lực (như giết người, cưới giựt) và … sex. Tiêu biểu cho xu hướng này là những tin được đọc nhiều nhất trên tuoitre.vn sáng nay (29/6):

• Mẹ sát hại 2 con ruột rồi tự vẫn
• Con trai Michael Jackson lần đầu tiết lộ về cái chết của cha
• Nam ca sĩ trẻ dọa tự tử vì bị Phạm Băng Băng “ngó lơ”
• Vàng nhà nước bán như "tôm tươi", dân mua rối bời
• Qua một đêm, lỗ 2,2 triệu đồng/lượng vàng
• Thân phận mại dâm nam - Kỳ 4: “Tai nạn nghề nghiệp”
• Cựu quan chức lộ băng sex nhận 13 năm tù
• Hoãn phiên tòa xét xử nguyên thượng sĩ công an dâm ô hàng loạt trẻ em
• Ôm tiền xếp hàng mua vàng trong tâm trạng phập phồng
• Bắt phó giám đốc MB.24 Lào Cai
• Hình ảnh phiên tòa hoa hậu, người mẫu môi giới mại dâm

Trong 11 bản tin được đọc nhiều nhất ở danh sách trên, có đến 4 bản tin liên quan đến sex! Trước đây, hình như có một thống kê của Google cho thấy người Việt khi lên mạng họ tìm những gì liên quan đến sex nhiều nhất. Có quá không nếu nói rằng Việt Nam là một đất nước đang bị obsessed (ám ảnh) vì sex.

Mà, obsession thì đi đôi với và hệ quả của suppression (cấm chỉ, ngăn chận). Cũng giống như người ta không có tự do nên mới khao khát đến độ ám ảnh vì tự do. Trong một xã hội mà những thảo luận về sex bị ngăn chận bằng luật pháp hay nguyên tắc đạo lí, và khi xã hội đó được mở thì mới tiết lộ “màu sắc” thật của nó. Tôi nghĩ tương tự, vì sex là một đề tài cấm kị, kiểu ai nói đến sex đều được xem là taboo, cho nên khi truy cập được Google thì người ta hăng say đi tìm cái cấm kị đó. Mà, báo chí thì cũng chỉ là thành viên trong xã hội thôi. Nhìn như thế thì có lẽ chúng ta không ngạc nhiên khi thấy giới báo chí rất thích những đề tài về sex hay liên quan đến sex. Có thể xem báo chí là những doanh nghiệp buôn bán thông tin. Thành ra, tôi nghĩ họ (giới báo chí VN) đang trở thành những nhà buôn sex.

Nhưng tôi nghĩ ở Việt Nam còn một vài lí do khác có thể giải thích tại sao giới báo chí chuộng buôn sex: họ bị đàn áp (hiểu theo nghĩa suppression) không cho đưa tin thời sự chính trị người dân quan tâm, nên họ phải quay sang bán sex. Theo tôi biết thì những bản tin của báo chí VN đều có định hướng từ đảng, hay cụ thể là ban tuyên giáo. Tuần nào họ cũng có chỉ thị phải đăng tin này, không đăng tin kia, tránh đề tài nọ. Một trong những đề tài cần cẩn thận là … chính trị. Tờ báo nào ở VN cũng đều có mục/cột chính trị - xã hội, nhưng nhìn vào cột đó chúng ta thấy toàn là những tin “phải đạo” theo hướng Nhà nước hay cụ thể là Thông tấn xã VN. Có rất nhiều những tin như lãnh đạo này đi thăm cơ sở kia, lãnh đạo nọ làm việc với tỉnh nọ, và những câu chữ mà đọc lên là người ta thấy rất quen quen (như “quyết tâm”, “kiên quyết”, “giữ vững”, v.v.) Không có hay rất ít những tin mà người dân quan tâm như vấn đề biển đông, vấn đề Tàu đang đe doạ Việt Nam, tham ô hối lộ, kinh tế và nợ công, v.v. Có thể tóm tắt rằng những gì người dân thật sự muốn biết thì báo chí không đưa tin, còn những gì báo chí đưa tin một cách hăng hái thì người dân không muốn biết. Nhưng báo chí là doanh nghiệp, và doanh nghiệp thì cần bán báo, cần người đọc. Không có những bản tin hấp dẫn về tham ô hối lộ thì họ phải quay sang bán những tin tức sex. Do đó, tôi nghĩ không khó hiểu khi báo chí VN rất hăng say với sex.

Cái hay của sex là nó hấp dẫn hơn những vấn đề thời sự nhàm chán. So với thời sự là chuyện đâu đâu, sex gần gũi hơn với người đọc. Sex ướt át với tuổi trẻ, và có hiệu ứng gây mê cho người lớn. Sex là liều thuốc an thần cho xã hội, vì qua nó mà người ta xoa dịu những nhọc nhằn và khó khăn của đất nước. Sex, cũng như thể thao, còn là nguồn giải trí mà qua đó những người cầm trịch xã hội muốn làm cho người dân quên đi những vấn đề bức xúc trong xã hội và bớt quan tâm đến an ninh quốc gia. Ngày xưa, người Pháp khi đô hộ VN họ áp dụng “nghệ thuật” đánh lạc hướng này rất hiệu quả. Lịch sử bây giờ có khi chỉ tái lập những gì thuộc ngày xưa.

Chạy theo sex sells còn là một cách rất tuyệt vời để khinh thường độc giả. Tuy sex là đề tài hấp dẫn, nhưng nó là loại đề tài thấp về mặt tri thức. Sex thuộc về bản năng của con người. Sex là đề tài bàn luận của những người kém văn hoá, chứ khó có thể là đề tài của người có văn hoá. Khi báo chí đua nhau đưa tin về sex cũng có nghĩa là họ xem thường độc giả. Đó là cách nói: chúng bay ngu dốt quá, làm sao có thể hiểu chuyện lớn được, nên chúng tao chỉ cho chúng bay đọc mấy thứ vớ vẩn thôi. Có thể báo chí không có ý đó, nhưng người đứng ngoài cuộc hiểu như thế.

Tôi thấy trong cơn xoáy điên cuồng sex sells ở Việt Nam, nữ giới là người bị thiệt thòi nhất. Người ta in những tấm hình nóng bỏng và khêu gợi của những cô gái được cho là ca sĩ, hoa khôi, hoa hậu, người mẫu trên báo, và chỉ ra họ là những người “bán dâm”. Có báo còn viết ra những con số về giá bán dâm, và số tiền đó được chia chác ra sao giữa các bên liên đới. Cách đưa tin như thế làm cho người đọc thấy những người đẹp kia chỉ là hàng hoá, một loại hàng hoá mà người nhiều tiền lắm của có thể mua. Đằng sau những bức hình đó, tôi đoán giới báo chí muốn nói rằng họ đẹp như thế đấy, nhưng họ cũng rất nhơ nhuốc. Đó còn là một cách khinh miệt giới nữ của giới báo chí. Người mình (mà hạng người có học – báo chí có thể xem là “có học”) mà khinh người mình, thì đừng trách tại sao báo chí Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan trưng hình phụ nữ Việt Nam như là những hàng hoá sex.

Trong cơn sốt sex sells vừa qua, có một điểm ít ai chú ý: không hề thấy bóng dáng của nam giới. Chúng ta không hế thấy báo chí cho biết danh tính của những người mua dâm. Những người này chắc chắn là nam và đại gia. Tại sao trong vụ mua bán dâm ở Hà Giang, báo chí sẵn sàng đưa tên của những người mua dâm như Sầm Đức Sương, Nguyễn Trường Tô (và một danh sách gần 20 quan chức), mà lần này thì họ không nói đến những kẻ mua dâm. Phải có cầu thì mới có cung chứ. Có thể họ là những người quyền thế và lắm tiền để có thể bịt miệng báo chí (còn trong trường hợp Hà Giang thì những người bị nêu tên là thấp cổ bé họng và/hay đang sắp xuống chức). Nếu không có những người sẵn sàng bỏ hàng ngàn USD để mua dâm thì làm sao có người cung ứng. Ấy thế mà nạn nhân trong trường hợp mua bán dâm mới nhất là những người đẹp, mà không có người mua dâm nào bị phạt cả. Ở các nước văn minh, người ta phạt người mua dâm là chính, (chúng ta còn nhớ vụ ông tổng giám đốc ngân hàng Thuỵ Sĩ ngồi tù vì mua dâm gái 17 tuổi, và vụ ông tổng giám đốc IMF đi tù vì nghi ngờ mua dâm). Ấy thế mà ở Việt Nam, nạn nhân là người bán dâm. Người ta đánh giá mức độ tiến bộ và văn minh của một xã hội qua cách đối xử với phụ nữ và sex. Thái độ của báo chí và luật pháp Việt Nam trong vụ mua bán dâm mới nhất là một điểm đen, và điểm đen đó đặt Việt Nam bên lề những xã hội văn minh.
Read more ...

Người Việt ở Mĩ nghèo nhất trong cách sắc dân châu Á?

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

Báo Thanh Niên ngày hôm qua có một bản tin làm tôi suy nghĩ: “Người Việt nghèo nhất trong nhóm người châu Á tại Mĩ” (1). Nhưng tôi e rằng tựa đề bài báo này không đúng với những gì trình bày trong bản báo cáo mà bài báo đề cập đến. Dữ liệu từ báo cáo cho thấy người Việt ở Mĩ có thu nhập khá, nhưng trình độ học vấn thì kém nhất so với cộng đồng Tàu, Ấn, Nhật, Hàn, và Phi.



Bài báo viết rằng “Với tựa đề Cách ly nhưng bình đẳng: Công dân châu Á tại Mỹ, báo cáo cho thấy người Ấn và người Nhật là những công dân có điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế tại Mỹ. Trong khi người Việt Nam lại là nhóm người nhập cư có thu nhập thấp nhất và ít học nhất trong các nhóm nhập cư châu Á.” 



Thật ra, đó là báo cáo “Separate but equal: Asian Nationalities in the US” do Gs John Logan và đồng nghiệp W. Zhang soạn thảo và phân tích. Như chúng ta thấy, ngay cả cách dịch “nationalities” = “công dân” cũng không ổn mấy, nhưng thôi, chúng ta hãy tập trung vào cái thông điệp chính của bài báo. Trong bài này, Logan và Zhang so sánh những chỉ tiêu liên quan đến kinh tế, giáo dục và an sinh của 6 cộng đồng người Á châu ở Mĩ (Tàu, Phi, Ấn, Việt, Hàn, và Nhật). 



Báo cáo của Logan và Zhang có thể xem qua ở đây: 
http://www.s4.brown.edu/us2010/Data/Report/report06112013.pdf



Bảng số 2 trong báo cáo của Logan và Zhang cho thấy thu nhập trung bình (tính trên hộ gia đình - household) của người Việt là 52,830 USD, cao hơn cộng đồng người Hàn (50,000), nhưng thấp hơn Tàu (65,000), Ấn (89,600), Phi (77,010), và Nhật (65,000). Như vậy, dựa vào con số này, không thể nói “Người Việt nghèo nhất trong nhóm người châu Á tại Mĩ”. Càng không thể kết luận như thế khi mà phân tích này chưa xem xét đến các cộng đồng Á châu khác như Cambodia, Lào, Miến Điện, Thái Lan, Pakistan, Bangladesh, v.v. Thật ra, báo cáo của Logan và Zhang không hề viết rằng người Việt nghèo nhất. 



Tuy nhiên, báo cáo đó cũng chỉ ra vài xu hướng đáng chú ý về giáo dục. So với cộng đồng Tàu, Nhật, Hàn, Phi, và Ấn, cộng đồng người Việt là ít học nhất. Tính trung bình, số năm theo học (years of schooling) của người Việt là 11.8 năm, so với Tàu (13.9), Ấn (15.5), Phi (14.1), Nhật (14.4), và Hàn (14.5). Một báo cáo khác (Pew Research) cho thấy tỉ lệ người trên 25 tuổi có trình độ đại học và cao đẳng ở người Việt chỉ 26%, và con số này thấp nhất so với Tàu (51%), Ấn (70%), Phi (47%), Nhật (46%), và Hàn (53%). 



Chúng ta biết rằng thu nhập bình quân có tương quan cao với trình độ học vấn. Do đó, những dữ liệu trên có phần … mâu thuẫn. Bởi vì cộng đồng người Việt có trình độ học vấn thấp nhất, chúng ta “kì vọng” rằng thu nhập bình quân của người Việt phải thấp nhất so với 5 cộng đồng kia. Nhưng số liệu trên cho thấy thu nhập bình quân của người Việt cao hơn người Hàn! 



Tôi nghĩ những con số trên cần phải đặt trong bối cảnh thực tế của cộng đồng người Việt. Thứ nhất, người Việt chỉ mới định cư ở Mĩ từ 30 năm qua (trước đó cũng có nhưng không đáng kể), còn các cộng đồng khác, như Tàu và Phi chẳng hạn, thì đã định cư khá lâu ở Mĩ. Thứ hai, đại đa số người Việt đến Mĩ với hai bàn tay trắng (tị nạn mà!), còn những cộng đồng khác họ đến với tiền của đàng hoàng. Do đó, trong một thời gian ngắn mà người Việt đạt được mức thu nhập như thế thì cũng đáng chú ý lắm chứ. 



Báo cáo nói rằng các cộng đồng Á châu thường tập trung nhau (giống như cộng đồng người Châu Mĩ Latin), nhưng đó KHÔNG phải là một điểm tiêu cực. Không giống như cộng đồng người Châu Mĩ Latin thường nghèo, còn các cộng đồng người Á châu thì giàu - giàu hơn so với người da trắng bản xứ (tính theo thu nhập). Tôi nghĩ xu hướng tập trung như thế cũng dễ hiểu. Thoạt đầu mới chân ướt chân ráo sang xứ người, phải tìm nơi gần đồng hương để sống chứ. Gần đồng hương có nhiều cái lợi như học hỏi kinh nghiệm người đi trước, nếu bí tiếng Anh thì nói tiếng nước mình, và quan trọng hơn hết là thực phẩm. Thử tưởng tượng sống giữa nước Mĩ mà sáng ăn phở, cơm tấm; trưa ăn cơm gà, bánh mì; chiều cơm xào (mà món nào cũng ngon hơn ở Việt Nam) thì còn gì hay hơn? Nhưng thế hệ thứ hai thì chúng sẽ dần dần xa cộng đồng và tìm nơi nào ít người Việt để sống vì đối với họ sống gần người Việt có nhiều vấn đề quá! 



Nhưng tôi thấy những nghiên cứu xã hội ở người Việt thường có độ tin cậy thấp. Không phải tại nhà nghiên cứu kém, mà tại … người Việt. Người Việt thường nói không thật. Nhất là đụng đến chuyện hỏi họ về những thông tin liên quan đến cá nhân thì họ thường né tránh hay nói dối. Có lẽ do tâm lí sợ hãi và không tin vào người khác. Họ có thể có thu nhập 70 ngàn USD một năm, nhưng họ nói 40 ngàn USD (để làm cho người ta thương hại). Họ làm quần quật trong các tiệm buôn bán của người Việt, nhưng trên giấy tờ thì họ … thất nghiệp. Người da trắng thất nghiệp là thất nghiệp thật (phải sống chật vật), còn người Việt, theo kinh nghiệm của tôi, thì không thất nghiệp thật. Họ "thất nghiệp" nhưng vẫn có thu nhập đều đều, vẫn đi nghỉ holiday, vẫn gửi tiền về bên nhà giúp thân nhân, thậm chí còn xây nhà nữa! Do đó, tôi nghĩ những cuộc điều tra xã hội ở người Việt rất khó có độ chính xác tốt. Người Mĩ và người phương Tây rất khó hiểu được người Việt, và những con số họ báo cáo khó có độ chính xác cao. Trong thực tế, tôi nghĩ thu nhập của người Việt (và người Tàu nữa) ở Mĩ cao hơn con số mà các nhà nghiên cứu trình bày. 



Read more ...

Kevin Rudd – thủ tướng mới của Úc

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

Kevin Rudd, tân thủ tướng Úc

Thế là Kevin Rudd lại trở thành thủ tướng Úc. Một cuộc bầu cử trong nội bộ Đảng Lao Động (đảng cầm quyền) 10 phút trước đây đã hạ bệ đương kim thủ tướng Julia Gillard và bầu Kevin Rudd làm thủ tướng. Tôi ít khi nào nói về chính trường Úc, nhưng lần này thì tôi theo dõi sự việc rất sát, nên có vài dòng nhật kí về một nhân vật hết sức đặc biệt, Kevin Rudd. Sự trở lại của Rudd còn là một bài học tuyệt vời của một thể chế dân chủ. 

Cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Kevin Rudd đúng như câu “lên voi xuống chó” của người Việt chúng ta. Sinh năm 1957 trong một gia đình lao động thuộc bang Queensland (miền Bắc nước Úc). Tốt nghiệp từ trường Đại học Quốc gia Úc (ANU) với bằng cử nhân hạng ưu, chuyên về lịch sử và ngôn ngữ Hoa. Đáng chú ý là trong thời gian theo học cử nhân, ông làm nghề cleaner (quét dọn nhà) cho nhà báo Laurie Oakes (ông này là một bỉnh bút nổi tiếng của đài truyền hình số 9). Năm 1989, Rudd tiếp tục theo học tiếng Hoa tại Đại học Quốc gia Đài Loan (NTU). Ông nói và viết thành thạo tiếng Hoa. Năm 1981, ông được bổ nhiệm làm tham tán cho Bộ Ngoại giao Úc và phục vụ trong các sứ quán Úc ở nước ngoài. Năm 1988 ông và vợ về Úc, và ông tham gia Đảng Lao Động với nhiều vị trí, kể cả làm phụ tá cho thủ hiến bang Queensland lúc đó là Wayne Goss. Năm 1998 ông trở thành dân biểu Quốc hội, và sau đó trở thành lãnh tụ đối lập. Những năm sau đó thì bắt đầu sóng gió ...

Năm 2007 trong kì bầu cử liên bang, ông đánh bại John Howard (thuộc đảng bảo thủ gọi là “Liberal” – không thể dịch là “Tự do”) và trở thành Thủ tướng Úc. Trong kì bầu cử này, John Howard thất bại thảm hại, thảm hại đến nổi ông không giữ được ghế dân biểu của chính mình! Những năm sau khi thắng cử, Kevin Rudd được người dân yêu mến, lúc nào cũng ở vị trí cao tưởng như không ai hạ nổi. Ấy thế mà đến 2010, khi cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra, thì uy tín của ông dần dần suy giảm. Nhất là chính sách đánh thuế kĩ nghệ hầm mỏ làm cho ông trở nên kẻ thù của những tay đại gia hầm mỏ của Úc. Tình hình nguy kịch, và Đảng Lao Động phải có hành động: họ tổ chức bầu cử nội bộ đảng. Kết quả bầu cử là Kevin Rudd bị mất phiếu, và người phó của ông là Julia Gillard đắc cử. Bà Gillard trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Úc. 

Thất cử thủ tướng, Rudd buồn lắm, và đệ đơn từ chức. Nhưng sau khi đắc cử thủ tướng, bà Gillard bổ nhiệm Rudd (tức sếp cũ của bà) làm Bộ trưởng Ngoại giao. Rudd xuất sắc trong vai trò này. Trong thời gian làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Rudd có lần thăm Việt Nam (Rudd là người thích chơi với châu Á). Nhưng tình hình chính trị rối reng, Đảng Lao Động dưới sự lãnh đạo của Gillard cũng dần dần mất uy tín. Thế là những tay “kingmakers” trong Đảng Lao Động đề cử Rudd tranh chức lãnh tụ với bà Gillard. Đầu năm 2010, trong một cuộc bầu cử nội bộ Đảng, Rudd thất bại, và Gillard vẫn hiên ngang làm thủ tướng. Rudd buồn lắm, và nhất định rời chính trường về quê Queensland giúp vợ quản lí doanh nghiệp. Ông tuyên bố nhiều câu chắc nịch, như “không bao giờ tranh cử nữa”, “không bao giờ làm chính trị nữa”, v.v. 

Nhưng như trong phim James Bond, never say never again (không bao giờ nói ‘không bao giờ’ lần nữa), và dòng đời đưa đẩy, Rudd lại xuất hiện. Mấy tháng gần đây, dân tình ta thán bà Gillard quá. Bà bị người dân tố là nói dóc, là thủ phạm làm cho nền kinh tế suy yếu, là hèn với Tàu, v.v. và v.v. Người ta nói đến một cuộc bầu cửa mới để đưa Kevin Rudd trở lại chính trường, nhưng người ta cũng ngại là bà Gillard vẫn còn có số đông. Nhưng sự kiên nhẫn của Đảng lao Động cũng đến độ tối đa, nên hôm nay, Đảng tổ chức bầu cử nội bộ. Khoảng 5 phút trước, kết quả cho thấy Rudd được 57 phiếu, và Gillard được 45 phiếu. Thế là sau vài tháng ẩn danh, Rudd lại trở thành thủ tướng Úc. Đúng là một sự nghiệp đầy thăng trầm của một chính khách. 

Với cá nhân tôi, nếu chọn giữa hai người, Gillard và Rudd, thì tôi thích Rudd hơn. Tuy cả hai đều học giỏi và có tài hùng biện, nhưng Rudd là người lịch lãm hơn, nho nhã hơn, và worldly hơn Gillard. Rudd là người hỗ trợ cho giáo dục, khoa học và y tế rất nhiều. Chính ông là tác giả của chương trình broadband internet cho toàn nước Úc, và người tuyên bố mỗi học sinh trung học từ lớp 9 trở lên sẽ được cấp một cái laptop (và ông nói là làm). Còn bà Gillard, từ ngày bà làm thủ tướng, ngân sách cho giáo dục và khoa học Úc càng ngày sụt giảm. Do đó, tôi càng có lí do không ưa bà Gillard, nhưng chưa có dịp bầu cử để tống khứ bà ấy thì nay có Kevin quay lại. Tôi phải chúc mừng Rudd. 

Kevin Rudd còn có một mối liên quan xa với người Việt. Anh ruột của Rudd có một người con nuôi gốc Việt tên là Van Thanh Rudd. Do đó, Thanh gọi Kevin Rudd bằng chú. Nếu tôi nhớ không lầm, Thanh là một hoạ sĩ, nhưng không theo Đảng của chú, mà tham gia Đảng Xã hội. Vài năm trước, Thanh gây tranh cãi làm nhức đầu ông chú. Anh ta mặc đồng phục KKK để phản đối những cuộc hành hung sinh viên Ấn Độ, tố cáo chính phủ liên bang là “diệt chủng” (mấy anh nghệ sĩ thường nói … quá), và thế là bị cảnh sát bắt và phạt tiền. (Nếu ở Việt Nam không chừng anh ta đã vào tù!) Khi báo chí hỏi về hành động của người cháu, Kevin Rudd nói ông không ủng hộ cái đồng phục và phát ngôn, nhưng ông ủng hộ quyền tự do ngôn luận của cháu ông. Rudd nói như Voltaire nói vậy. 

Sự trở lại của Kevin Rudd là một bài học của sự đổi thay và dân chủ. Nếu đảng viên thấy lãnh tụ của họ không còn xứng đáng hay đang làm phương hại đến quốc gia, thì họ thay lãnh tụ. Và, họ thay rất nhanh. Từ lúc kêu gọi bầu cử nội bộ (ở Úc gọi là “challenge”) đến lúc bầu cử và có kết quả không đầy một tuần! Yếu tố thời gian rất quan trọng trong chính trị, không thể để một kẻ bất tài (hay mất tín nhiệm) tại chức lâu ngày trong khi con thuyền của đảng sắp chìm. Điều này rất khác với nước ta, nơi mà lá phiếu tín nhiệm của Quốc hội hình như chẳng có hiệu lực thực tế gì đáng kể, và quan chức thì thoải mái ngồi cho đến ngày nghỉ hưu. (Đó là chưa nói đến cách bỏ phiếu và thang điểm tín nhiệm không giống ai). 

Sự việc diễn ra theo các nguyên tắc dân chủ. Thiểu số phục tùng đa số. Chỉ có thể chế dân chủ mới có một sự chuyển giao quyền lực một cách nhẹ nhàng như tôi vừa mô tả trên. Cái hay của một thể chế dân chủ trưởng thành là người đắc cử và người thất cử đều chấp nhận số phận chính trị của mình qua lá phiếu của đồng nghiệp. Người đắc cử đưa tay nâng đỡ người thất cử, như bà Gillard bổ nhiệm sếp Kevin Rudd làm bộ trưởng ngoại giao. Vài tuần tới, tôi chắc rằng Kevin Rudd sẽ bổ nhiệm bà Julia Gillard một chức vụ nào đó trong nội các. 

Phải nói rằng chính trường trong các thể chế dân chủ rất … sinh động. Tất cả đều diễn ra một cách minh bạch, trước ống kính của giới truyền thông và của tất cả người dân. Người dân hào hứng theo dõi từng phút, chẳng khác gì một trận đá bóng. Bạn bè tôi nhắn tin qua lại về số phiếu, người thì vui mừng khi thấy bà Gillard bị thất cử, kẻ thì buồn cho bà (chắc là cảm tình viên của Gillard). Các cơ sở bán vé đua ngựa chó cũng cá cược về Rudd và Gillard trên màn ảnh tivi. Họ xem cuộc bầu cử cũng như một trò chơi đua ngựa, đua chó! Nhưng tôi nghĩ đó là một thể chế chính trị trưởng thành, vì tất cả người dân đều tham gia vào chính trường một cách hào hứng. Ước gì Việt Nam mình cũng có một chính trường vui tươi như Úc, để mọi người có thể tham gia mà không bị ám ảnh bởi một nỗi sợ vô hình. Nhưng dĩ nhiên tôi biết “ước mơ cũng chỉ là ước mơ thôi”.
Read more ...

Hội nghị Strong Bone Asia lần 5 - Chương trình Workshop về DXA

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013


Kính thưa các đồng nghiệp,

Hội nghị Strong Bone Asia Conference lần thứ V sẽ có một workshop đặc biệt về đo lường mật độ xương bằng công nghệ DXA và chẩn đoán loãng xương. Workshop sẽ do Giáo sư Nicholas Pocock (Bệnh viện St Vincent’s Hospital, Sydney) và ông Chris Schultz (Nhà khoa học về y học hạt nhân, Bệnh viện Hoàng gia Adelaide). Cả hai người đều là những chuyên gia nổi tiếng trên thế giới về lĩnh vực đo lường mật độ xương.

Chúng tôi rất hân hạnh thông báo cùng các bạn chương trình workshop (xem dưới đây). Workshop sẽ có những đề tài từ chẩn đoán loãng xương, phương pháp DXA và diễn giải kết quả đo lường mật độ xương. Qua đề nghị của tôi, hai chuyên gia này còn nói thêm về cách đánh giá xương ở trẻ em và cách đánh giá thành phần cơ thể (tỉ trọng mỡ và lượng cơ). Đây là những đề tài hết sức thiết thực cho các bác sĩ lâm sàng và chuyên viên đo mật độ xương. Các bài giảng sẽ có hai slides song song bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Tôi sẽ có mặt và hỗ trợ về chuyên môn cũng như chuyển ngữ.

Học viên tham dự workshop cần phải đăng kí với Ban tổ chức. Các bạn có thể đăng kí qua trang web www.sba2013.com hay tai đây. Ngoài ra, các bạn có thể gửi email đăng kí đến Bs Huỳnh Văn Khoa tại khoa_hv@yahoo.com.

Rất hân hạnh chào đón các bạn đến với Hội nghị Strong Bone Asia và workshop!

Nguyễn Văn Tuấn, Lê Anh Thư
Ban khoa học


Chương trình tập huấn về đo lường mật độ xương
2/8/2013 – Đà Nẵng


Phiên

Giờ

Chủ đề

Giảng viên
1
8.30 – 9.15am
Loãng xương: định nghĩa, dịch tễ học, chẩn đoán, điều trị, và cơ thể học
N Pocock
2
9.15 – 10.15am
Nguyên lí DXA, phóng xạ và an toàn

C Schultz

10.15 – 10.30am
Giải lao

3
10.30 – 11:30am
Diễn giải kết quả đo lường mật độ xương
N Pocock
4
11.30 – 12:15pm
Giới thiệu phương pháp thống kê trong DXA, kiểm tra chất lượng, quản lí dữ liệu
C Schultz

12.15 – 1.15pm
Ăn trưa

5.
1.15– 2.15pm
Những “cạm bẫy” của DXA, báo cáo kết quả đo lường
N Pocock
6
2.15 – 3.00 pm
Đánh giá gãy xương cột sống thắt lưng, thành phần cơ thể, và đo lường xương ở trẻ em
C Schultz
5
3.00 – 5.00pm
Tổng kết
N Pocock và C Schultz




Dear Colleagues,

The Fifth Strong Bone Asia Conference will have a special pre-conference workshop on bone density measurement by DXA technology. The workshop will be conducted by A/Prof Nicholas Pocock (St Vincent’s Hospital, Sydney) and Mr. Chris Schultz (Scientist-in-Charge, Nuclear Medicine, Royal Adelaide Hospital). The two experts are well-known for their expertise in bone densitometry.

We are pleased to announce the workshop program (below). The workshop will cover topics ranging from diagnosis of osteoporosis, DXA measurement, to interpretation of bone density. They will also give lectures in the measurement of bone density in children and assessment of body composition. The lectures will be delivered in English, with Vietnamese translation.

Participants are required to register with the Organizing Committee. The registration can be done here. You can also email your registration to Dr. Khoa Huynh at khoa_hv@yahoo.com.

We look forward to seeing you in Danang soon.

Professor Tuan V. Nguyen, A/Prof Le Anh Thu 
Co-chair, Scientific Committee


Workshop on Bone Density Measurement
2nd August 2013
Tentative Program


Session

Time

Topic

1
8.30 – 9.15am
Osteoporosis: Definition, Epidemiology, Diagnosis, Treatment, Essential anatomy.
Nick Pocock
2
9.15 – 10.15am
Principles of DXA. Radiation basics and safety.

Chris Schultz

10.15 – 10.30am
Coffee break

3
10.30 – 11:30am
Interpretation of DXA
Nick Pocock
4
11.30 – 12:15pm
Introduction to Statistics for Densitometry.
QA/QC.
Information systems management in DXA
Chris Schultz

12.15 – 1.15pm
Lunch

5.
1.15– 2.15pm
Pitfalls of DXA. Reporting DXA.
Nick Pocok
6
2.15 – 3.00 pm
LVA, Body Composition, Paediatric DXA.
Chris Schultz
5
3.00 – 5.00pm
WORKSHOP
Nick Pocock / ChrisSchultz



Read more ...