Pages

Bác sĩ bị giam tại gia vì tống tiền?

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxB2OtbBH4JVUpo8q2E-9B2-0XhpIxg4U8l-D12BWVomrV6uQDj0unp9eTaUZgPmA2cIKFfYZN5b9UIYHdzqHvPaX7x85kaQcRrYPxuFZaifFiqgLHv446JmCNIRYOqYQ17PfQaYc1GNo/Người Ý đối xử với giới khoa học làm nhiều người ngạc nhiên. Tháng trước, một phiên toà ở Ý tuyên án tù giam cho các nhà khoa học Ý vì không cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ trong trận động đất tại thành phố L’Aquila. Nay lại thêm tin một bác sĩ phẫu thuật rất nổi tiếng bị giam tại nhà vì bị tố cáo tống tiền bệnh nhân. 


Ông là Giáo sư Paolo Macchiarini, một nhà phẫu thuật lồng ngực rất nổi tiếng trên thế giới. Ông nổi tiếng vì là người tiên phong trong giải phẫu ghép khí quản ở người lớn và trẻ em mà không dùng thuốc ức chế miễn dịch. Ông còn là một nhà nghiên cứu có tiếng, đứng đầu một lab về y học tái sinh (regenerative medicine) tại Viện Karolinska. Báo chí Âu châu gọi ông là Super Surgeon – siêu phẫu thuật viên.

Nhưng ông đã không may mắn trong thời gian gần đây. Khởi đầu là một bài báo của ông bị rút xuống từ tập san Annals of Thoracic Surgery. Lí do rút xuống là vì trong bài báo có một bảng số liệu của một bài báo khác trước đây, nhưng tác giả không ghi nguồn. Nhưng một nguồn tin mới nhất cho biết ông còn bị giam lỏng tại gia. Ông bị cấm không được rời nước Ý, nhưng được cho phép giải phẫu 15 bệnh nhân tại bệnh viện Careggi, nơi ông có hợp đồng làm việc dài hạn. Bản tin này có thể tóm lược vài ý chính dưới đây.

Báo chí Ý cho rằng ông chẳng làm việc vì khoa học hay giúp người, mà chỉ muốn làm giàu. Bệnh nhân tố cáo ông từng nói với họ trả một số tiền khá lớn để ông sắp xếp giải phẫu sớm hơn. Một bệnh nhân người Đức cho biết Bác sĩ Paolo Macchiarini đòi 150,000 Euro để ông chăm sóc kĩ hơn. Một bệnh nhân khác thì tố cáo ông đòi 130,000 Euro để điều trị trong một bệnh viện tư ở Anh. Nên nhớ rằng những cáo buộc này chỉ là “attempted fraud” chứ chưa xảy ra trong thực tế. Nhưng Bs Macchiarini bác bỏ những cáo buộc đó. Luật sư của ông cho biết ông rất bực mình vì những cáo buộc như thế, và ông cảm thấy hối hận khi phải quay lại Ý (quê hương ông).

Mối quan hệ giữa ông và nước Ý không được “mặn mà” mấy. Năm 2008, một quan chức y tế hứa với ông sẽ tìm cách đề bạt chức danh giáo sư cho ông, nhưng sự việc không xảy ra. Sau đó, một lời hứa khác cho ông làm giám đốc một lab nghiên cứu lồng ngực ở Âu châu cũng không thành sự thật. Đến năm 2010, một bệnh nhân của ông bị nhiễm trùng và tử vong sau phẫu thuật, làm ông tố cáo bệnh viện thiếu trách nhiệm! Bệnh viện buộc ông từ chức. Sau khi ông từ chức, Viện Karolinska (Thuỵ Điển) “nhảy vào” cứu ông và bổ nhiệm làm invited professor (giáo sư thỉnh giảng) của một lab nghiên cứu. Đến tháng 2/2012, bệnh viện Carreggi (Ý) mời ông lãnh đạo một lab nghiên cứu hệ hô hấp với mức lương 310,000 Euro/năm.

Rõ ràng, Bs Paolo Macchiarini là một nhà khoa học có tài. Viện Karolinska rất tự hào về thành tựu của ông. Những cáo buộc chống lại ông xem ra chưa có gì thuyết phục (một giáo sư danh tiếng như thế mà đi “thương lượng” 130 ngàn Euro!) Ấy thế mà nhà chức trách Ý lại giam tại gia! Nếu Việt Nam xử sự theo kiểu Ý tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Read more ...

“Phong bì y tế” có thể hơn nửa tỉ USD mỗi năm!

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012
http://images.yume.vn/buzz/20121027/1-PH1.jpgHôm qua, tôi đọc được một bản tin rất đáng chú ý về “Nghiên cứu nạn đưa phong bì tại bệnh viện”. Đáng chú ý là người thực hiện nghiên cứu là một em sinh viên (tên là Trần Thị Mai). Hay thật! Đáng lẽ ngành y tế nên thực hiện nghiên cứu này, nhưng có lẽ ngành còn quan tâm những chuyện khác, nên để cho người ngoài ngành làm, và làm có vẻ tốt. Nhân đọc vài kết quả của nghiên cứu này, tôi ước tính rằng mỗi năm bệnh nhân đưa hối lộ cho bác sĩ và y tá khoảng 660 triệu USD.


Những câu hỏi nghiên cứu mà em đặt ra liên quan đến tình trạng bệnh nhân “đưa phong bì” cho bác sĩ và y tá. Nói thẳng ra là hối lộ (theo cách hiểu “Nhận dăm ba chục ngàn đồng cũng là tham nhũng”). Những câu hỏi nghiên cứu mà em muốn trả lời toàn là những vấn đề cả xã hội quan tâm: tại sao đưa phong bì, cách thức đưa, thái độ của bác sĩ và y tá sau khi nhận phong bì, v.v. Em còn nói thêm rằng “Báo chí đã nói nhiều đến vấn đề này nhưng tôi mong muốn có số liệu cụ thể để thấy được khách quan, chủ quan của việc đưa phong bì.” Nói cách khác (mà có lẽ em chưa biết) tinh thần của em đúng là tinh thần của y học thực chứng. Tình trạng đưa và nhận phong bì đã được nói đến nhiều lần, nhưng chưa ai có bằng chứng định lượng để phát biểu cụ thể, nên em làm nghiên cứu này. Hoan hô tinh thần khoa học của em Trần Thị Mai! Tôi chợt lan man ước gì các vị quan chức và bộ trưởng đều suy nghĩ và hành động như em sinh viên này. 

Để trả lời những câu hỏi trên, em thiết kế nghiên cứu theo mô hình survey – điều tra xã hội. Hai trăm bảng câu hỏi (questionnaire) được phát ra, và có 146 người (tức 73%) trả lời. Có lẽ tỉ lệ người trả lời không được cao, nhưng tôi nghĩ đó là một tỉ lệ rất đáng khích lệ, vì trong thực tế có nghiên cứu không đạt được 50%! Không rõ cách chọn mẫu được thực hiện như thế nào, nhưng tôi đoán với tỉ lệ tham nhũng / hối lộ quá cao thì có lẽ cách chọn mẫu cũng không ảnh hưởng lớn đến kết quả nghiên cứu. Trả lời câu hỏi của ai đó trong ban giám khảo, em tỏ ra là người hiểu biết phương pháp nghiên cứu, thể hiện qua câu này: “[…] Em nghĩ quan trọng là cách mình chọn mẫu như thế nào, còn số lượng đôi khi không quyết định đến kết quả nghiên cứu. Ví dụ như trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, với lượng dân số cả trăm triệu nhưng người ta chỉ khảo sát trên 1.000-2.000 dân. Đó là con số đại diện và cách chọn mẫu của em mang tính xác suất cao.” Rất nhiều người ở VN vẫn còn mang trong đầu kiểu làm kiểm kê, điều tra dân số, kiểu nghiên cứu theo mô hình xã hội chủ nghĩa (cái gì cũng lấy mẫu cả nước) sẽ không hài lòng với câu trả lời của em. Nhưng tôi thì nghĩ rằng em nói đúng (dù câu sau cùng chứng tỏ em hơi … lúng túng). Không cần phải lấy “mẫu đại diện” cả nước để có bằng chứng; chỉ cần lấy mẫu tốt ở một vài địa điểm là cũng có thể đảm bảo tính external validity (hợp lí ngoại tại) của bằng chứng nghiên cứu. Công trình nghiên cứu Framingham của Mĩ chỉ làm ở một quận nhỏ thuộc bang MA, nhưng kết quả có thể ứng dụng cho toàn dân số Mĩ và cả thế giới.

Kết quả cho thấy 76% người biết hay tự mình đưa phong bì cho nhân viên y tế. Con số này xem ra phù hợp với một nghiên cứu trước đây ở Hà Nội cho thấy khoảng 70% bác sĩ và y tá thú nhận có vi phạm y đức, kể cả [dĩ nhiên] nhận phong bì từ bệnh nhân. 

Tại sao hối lộ cho bác sĩ và y tá? Có lẽ những ai từng hối lộ thì câu hỏi này thừa, không làm cũng biết. Nhưng đối với người làm nghiên cứu thì câu hỏi này phải đặt ra, cần phải có chứng cứ và con số. Theo tác giả thì những lí do chính để hối lộ là được ưu tiên, được chăm sóc tốt hơn: “64% người được khảo sát cho rằng quá tải tác động đến việc đưa phong bì vì ai cũng muốn được nhanh, được chăm sóc, được ‘để ý’ nên đưa để được giải quyết nhanh hơn.” Đưa hối lộ có hiệu quả không? Câu trả lời là có. Theo tác giả, có đến 81% bệnh nhân cho biết hay đồng ý rằng sau khi đưa phong bì thì thái độ phục vụ của y tá và bác sĩ có tận tình hơn, tích cực hơn.

Đưa hối lộ như thế nào? Xem ra cách thức khá phong phú, từ kẹp trong số khám bệnh, nhét vào túi áo, đến hiện vật. Không thấy tác giả cho biết cách thức đưa tiền nào phổ biến nhất. Có được thông tin đó cũng giúp ích cho những bệnh nhân chưa biết hối lộ như thế nào! Bệnh nhân thường chọn chỗ vắng người, hoặc trong phòng điều trị, hoặc phòng mạch / nhà riêng của bác sĩ. Mới đây, Bộ trưởng Y tế tuyên bố rằng bác sĩ hay y tá nào nhận phong bì thì bệnh nhân nên chụp hình và gửi cho bà bộ trưởng. Trả lời tính liên quan của nghiên cứu, em sinh viên Trần Thị Mai nói: "Qua khảo sát, người nhà bệnh nhân chỉ đưa phong bì ở những nơi vắng người, không có người qua lại nên không thể chụp ảnh được. Em nghĩ đó có thể là giải pháp trong sự bế tắc của ngành y tế." Câu trả lời cũng có thể hiểu như là một bác bỏ lời khuyên của Bộ trưởng.

Đưa bao nhiêu? Bài báo trên Tuổi Trẻ có một bảng thống kê thú vị dưới đây. Nhìn vào bảng số liệu này, chúng ta dễ dàng thấy bệnh nhân cho tiền bác sĩ nhiều hơn là cho y tá. Không rõ số tiền bệnh nhân hối lộ cho các phó giáo sư và giáo sư là bao nhiêu, nhưng những số liệu này cho thấy tiền hối lộ cũng phụ thuộc vào đẳng cấp.  

Tiền trong phong bì
Số y tá nhận
Số bác sĩ nhận
20,000 – 50,000
47
3
100,000 – 200,000
49
29
300,000 – 500,000
8
39
600,000 – 1 triệu
3
15
Trên 1 triệu
0
13

Dựa vào những con số trên đây, tôi ước tính rằng số tiền trung bình hối lộ cho y tá là 136,400 đồng, và cho bác sĩ là 586,400 đồng. Tính trung bình (y tá và bác sĩ), mỗi lần hối lộ là 352,600 đồng, tức khoảng 18 USD.

Một con số có lẽ bất cứ ai trong chúng ta muốn biết là mỗi năm bệnh nhân đã hối lộ cho bác sĩ và y tá bao nhiêu tiền. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải biết con số bệnh nhân nhập viện mỗi năm. Rất tiếc, thống kê của Bộ Y tế không có con số này (nhưng họ có những con số khác mà chúng ta không cần biết). Do đó, tôi phải dùng thống kê của Úc.   Theo số liệu thống kê năm 2010-2011 của Úc, số bệnh nhân nhập viện là khoảng 8.9 triệu người. Với dân số gần 21 triệu, con số bệnh nhân nhập viện là 42%. Nếu dân số Việt Nam là 87 triệu, và giả định rằng tỉ lệ nhập viện cũng tương đương với Úc, thì có khoảng 36.87 triệu bệnh nhân nhập viện. Có lẽ con số này còn thấp hơn thực tế, nhưng chúng ta có thể tạm chấp nhận con số 37 triệu lượt bệnh nhân nhập viện. Do đó, có thể ước tính rằng mỗi năm bệnh nhân VN hối lộ cho bác sĩ và y tá khoảng 18 x 37 = 666 triệu USD.

Đó là một con số khá lớn, nếu đặt trong bối cảnh tổng chi phí điều trị. Trong một điều tra xã hội trước đây của Ts Trần Hữu Quang (“Càng nghèo, chi phí y tế càng là gánh nặng”), chi phí y tế trung bình cho mỗi bệnh nhân mỗi năm là 2.9 triệu đồng, tức khoảng 145 USD. Nếu có ~37 triệu bệnh nhân thì chi phí y tế là 5.365 tỉ USD. Cộng thêm tiền hối lộ cho bác sĩ và y tá thì tổng chi phí cho y tế là 6 tỉ USD, trong đó 12% là hối lộ cho nhân viên y tế. Kinh khủng!

Sinh viên Trần Thị Mai trình bày đề tài trước hội đồng khoa học và các số liệu trong đề tài.
Sinh viên Trần Thị Mai trình bày đề tài trước hội đồng khoa học và các số liệu trong đề tài.
Một điều đáng nói ở đây là công trình này chỉ tốn hơn 2 triệu đồng, và tác giả chỉ mới là một sinh viên năm thứ 3. Chỉ hơn 2 triệu đồng mà em đã làm được một nghiên cứu có giá trị, chắc chắn có giá trị hơn hàng trăm nghiên cứu vô bổ nhưng với cấp “tiến sĩ”. Việc làm của em sinh viên này cũng là một cách trả lời cho những ai chỉ nói mà không dám làm, cho những ai đòi phải có tiền mới làm nghiên cứu có giá trị. Em Trần Thị Mai chứng minh cho họ thấy đó chỉ là những lời nguỵ biện cho sự lười biếng hay kém cỏi của họ.  

Dĩ nhiên, nghiên cứu này chỉ là một nỗ lực ban đầu, và kết quả đặt ra nhiều câu hỏi nghiên cứu khác. Có lẽ tác giả là người ngoài ngành y, nên có lẽ chưa tiếp cận được y văn về lĩnh vực này. Ngoài ra, cách thiết kế bộ câu hỏi hình như cũng còn đôi điều cải tiến cho đúng phương pháp hơn. Cần phải chú ý đến khía cạnh đạo đức khoa học. Tôi nghĩ nếu em có cơ hội tiếp cận y văn và phát triển đề cương nghiên cứu một cách chi tiết và hệ thống hơn (như Health Affairs chẳng hạn), đề tài của em hoàn toàn xứng đáng một luận án tiến sĩ. Nhưng với kết quả hiện tại, tôi nghĩ em có thể viết thành một bài báo khoa học gửi đăng trên một tập san quốc tế. Tôi đoán mình cũng có thể tiếp em một tay nếu có dịp và có thì giờ.

N.V.T

====


Nghiên cứu nạn đưa phong bì tại bệnh viện
TT - Sáng 25-11, tại chung kết “Giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka 2012”, đề tài “Hiện tượng đưa phong bì tại bệnh viện ở TP.HCM” của Trần Thị Mai - SV Trường ĐH Mở TP.HCM - đã gây ấn tượng với ban giám khảo.

Theo lời tâm sự của Mai, lý do để Mai đến với đề tài được đánh giá là “nóng” này bắt nguồn từ một “thắc mắc”. Mai cho biết: “Lúc đầu tôi không chọn đề tài này. Nhưng sau khi nghe một chị nói chị đi thăm người thân tại bệnh viện, thấy có một số người đưa phong bì cho bác sĩ. Tôi cứ thắc mắc tại sao họ lại đưa phong bì, họ đưa như thế nào, thái độ phục vụ của y tá, bác sĩ ra sao sau khi nhận phong bì... Báo chí đã nói nhiều đến vấn đề này nhưng tôi mong muốn có số liệu cụ thể để thấy được khách quan, chủ quan của việc đưa phong bì”.
Mong được tiếp tục khảo sát thêm
* Kết quả đáng lưu ý trong đề tài của bạn?
- Tôi phát ra 200 bảng hỏi cho người nhà bệnh nhân tại bốn bệnh viện lớn ở TP.HCM. Trong 146 bảng hợp lệ thu lại, số người nói có biết hiện tượng đưa phong bì cho nhân viên y tế chiếm 76%. Đáng chú ý, có 53/146 người cho biết họ có trực tiếp đưa phong bì cho y tá, bác sĩ theo các hình thức như kẹp trong sổ khám bệnh, nhét vào túi áo y tá, bác sĩ hay đưa kèm hiện vật... Hơn một nửa trong số này cho biết họ thường chọn địa điểm vắng người trong bệnh viện để đưa phong bì, kế đến là đưa trong phòng điều trị bệnh nhân, phòng bác sĩ và cả nhà riêng của bác sĩ.
* Người nhà bệnh nhân đón nhận những bảng hỏi về phong bì như thế nào?

"Vừa rồi, liên quan đến đề tài của em, có một câu của bộ trưởng Bộ Y tế nói nếu ai đưa phong bì thì chụp ảnh, giao cho bộ trưởng. Em bình luận thế nào?"
PGS.TS Phan An 
(trưởng ban giám khảo lĩnh vực xã hội - nhân văn)
- Họ ngại nói về vấn đề tế nhị này nên đôi khi rất khó thuyết phục trả lời bảng hỏi. Tại một bệnh viện, tôi đi thẳng vào phòng bệnh nhân, ngồi trò chuyện trực tiếp với người nhà của họ, nhờ cho ý kiến và giải thích những câu họ chưa hiểu. Cũng có người mình hỏi họ không trả lời. Người ngồi cạnh thấy thế cũng không trả lời luôn. Nhưng cũng có người hỗ trợ tận tình vì bức xúc khi phải đưa phong bì.

* Trong đề tài của bạn, người được hỏi nói gì về những lý do khiến họ phải đưa phong bì cho nhân viên y tế?
- Trong khảo sát của tôi, 64% người được khảo sát cho rằng quá tải tác động đến việc đưa phong bì vì ai cũng muốn được nhanh, được chăm sóc, được “để ý” nên đưa để được giải quyết nhanh hơn.
Nhiều người hoàn cảnh khó khăn nhưng “nghèo đưa theo kiểu nghèo” để mong được chăm sóc tốt hơn. Họ sợ bị phân biệt đối xử trong quá trình điều trị tại bệnh viện. Ngoài ra, có đến 90,9% người được hỏi “đồng ý” việc đưa phong bì là để mong muốn người thân của mình sẽ được chăm sóc tận tình, chu đáo hơn. Và 80,8% cũng rất đồng ý, đồng ý sau khi đưa phong bì, thái độ phục vụ của y tá, bác sĩ có “quan tâm hơn”.
* Bạn mong muốn điều gì qua đề tài của mình?
- Tôi chưa đi sâu vào giải thích những vấn đề đưa ra. Tôi mong muốn được tiếp tục khảo sát thêm, phỏng vấn sâu với người nhà bệnh nhân, ý kiến của y tá, bác sĩ về vấn đề này. Qua nghiên cứu, tôi hỏi người nhà bệnh nhân giải pháp nào để giảm bớt tình trạng đưa phong bì. Kết quả thu được cho rằng thủ tục khám chữa bệnh tránh rườm rà, phức tạp, tiếp đến là quan tâm đến mức lương và đời sống của nhân viên y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và người dân cần ý thức trong khi khám và chữa bệnh.

"Qua khảo sát, người nhà bệnh nhân chỉ đưa phong bì ở những nơi vắng người, không có người qua lại nên không thể chụp ảnh được. Em nghĩ đó có thể là giải pháp trong sự bế tắc của ngành y tế"
SV Trần Thị Mai
Đề tài của tôi cũng đưa ra khuyến nghị để giải quyết hiện tượng đưa phong bì trong bệnh viện cần phải có sự chung tay của cả bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, y tá - bác sĩ và các cấp lãnh đạo trong ngành y tế và các ngành có liên quan.

Giám khảo hứng thú với đề tài
Ngoài phần nhận xét, phản biện, năm thành viên ban giám khảo cũng bàn luận thêm về câu chuyện phong bì.
Sau phần báo cáo tóm tắt, PGS.TS Nguyễn Công Đức - thành viên ban giám khảo - giơ tay: “Sở dĩ tôi nhanh nhảu xin có ý kiến đầu tiên vì có chút liên quan đến “sếp” (vợ - PV) của tôi ở nhà. Đồng chí ấy là bác sĩ. Hôm kia tôi bảo cô ấy đến nghe xem đúng được bao nhiêu. Nhưng dứt khoát tôi nghĩ ngành y tế của chúng ta, trong cơ chế hiện nay có nhiều tiêu cực. Cho nên, đề tài này nếu làm tốt sẽ góp phần giải quyết một vấn nạn xã hội đang nhức nhối. Có 200 phiếu được phát ra, thu về 146 bảng hợp lệ. Vậy, tôi đề nghị tác giả đánh giá thêm sự tương thích giữa thực tế với số lượng phiếu thu về”.
Sau phần chuẩn bị, Mai trả lời: “Công trình nghiên cứu của em mang tính ý tưởng, nghiên cứu và khám phá. Em nghĩ quan trọng là cách mình chọn mẫu như thế nào, còn số lượng đôi khi không quyết định đến kết quả nghiên cứu. Ví dụ như trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, với lượng dân số cả trăm triệu nhưng người ta chỉ khảo sát trên 1.000-2.000 dân. Đó là con số đại diện và cách chọn mẫu của em mang tính xác suất cao”.
Trước khi đặt câu hỏi, PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân - thành viên ban giám khảo - nhận định phong bì là hiện tượng nhức nhối nên đề tài hấp dẫn và có tính cấp thiết cao. “Thế nhưng, hiện tượng đưa phong bì không chỉ có trong lĩnh vực y tế mà còn nhiều lĩnh vực khác như thủ tục hành chính, thuế quan, báo chí và cả giáo dục. Tác giả có nghĩ đến giải pháp để giải quyết hiện tượng này trên quy mô rộng hơn, ở các lĩnh vực khác nữa không?”.
“Lúc đầu, em cũng có nghĩ đến hiện tượng đưa phong bì ở những lĩnh vực khác. Nhưng em chọn khảo sát tại bệnh viện vì đây là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Em nghĩ nếu mình đưa ra giải pháp ở tầm vĩ mô thì phải nghiên cứu ở tầm vĩ mô hơn để có những thông số, từ đó có những giải pháp sát thực tế. Em không đưa ra giải pháp trên diện rộng vì sẽ không đồng bộ. Em nghĩ có thể giải quyết riêng trong vấn đề này ở bệnh viện, sau đó mới mở rộng ra các lĩnh vực khác” - Mai nói.
Đặt hàng thêm
PGS.TS Lê Thanh Sang - thành viên ban giám khảo - đánh giá ở mức độ nghiên cứu khoa học sinh viên, với những trình bày trong báo cáo thì đó là sự khích lệ và nỗ lực đáng ghi nhận. Theo TS Sang, đề tài đã mô tả, giải thích được ở mức độ nhất định hiện tượng đưa phong bì tại một số bệnh viện tiêu biểu mà tác giả lựa chọn.
“Báo cáo cho thấy tác giả biết cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích để đưa ra kết quả về mức độ phổ biến của việc đưa phong bì như đưa bao nhiêu lần, mỗi lần đưa bao nhiêu, ai là người đưa nhiều hơn, ai đưa ít hơn theo nghề nghiệp, thu nhập. Một hạn chế của đề tài là không có định tính. Kết quả của đề tài chỉ mô tả, theo mẫu định lượng nên không giải thích được vấn đề đưa ra. Một vài phần còn mang tính chủ quan” - ông Sang nói.
Sau phần phản biện, nhận xét của các giám khảo, PGS.TS Nguyễn Công Đức “xin được nói thêm” về chuyện phong bì.
Ông Đức kể: “Vợ tôi là bác sĩ nên cũng hay được trao và cô ấy cũng hay từ chối. Đối tượng y tá, bác sĩ, điều dưỡng cũng giống như chúng tôi. Tôi biết có những luận án tiến sĩ rất tệ nhưng bỏ phong bì là qua hết. Ở bệnh viện, chuyện phong bì chỉ liên quan đến một người. Trong khi qua phong bì mà một người nào đó thành tiến sĩ, nhà khoa học thì tác hại hơn nhiều”. Cuối cùng, ông Đức đặt hàng: “Xong đề tài nghiên cứu này, tác giả nên lấy đối tượng như chúng tôi, trong lĩnh vực của chúng tôi để nghiên cứu tiếp...”.
HÀ BÌNH
Read more ...

Điểm sách: Nghĩ nhanh, nghĩ chậm

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012
http://greatesthitsblog.com/wp-content/uploads/2011/12/THINKING-FAST-AND-SLOW.jpgĐây là một cuốn sách rất thú vị và hay. Cuốn sách có tựa đề là Thinking, fast and slow, tuy là sách dành cho đại chúng, nhưng trong đó tác giả thuật lại  những nghiên cứu tâm lí và xã hội học được thiết kế một cách thông minh. Tác giả là Daniel Kahneman, một nhà tâm lí học nổi tiếng, từng đoạt giải Nobel kinh tế. Trong bài này, tôi điểm qua cuốn sách và có đề nghị nên dịch sang tiếng Việt. Phải nói rằng đây là một trong những cuốn sách tôi rất tâm đắc trong thời gian gần đây (sau cuốn Born to be good - the science of a meaningful life). Đọc cuốn Thinking, fast and slow, bạn đọc có cảm giác tác giả hiểu mình rất rõ! Bài đã đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (bạn đọc phải đăng kí mới đọc được). 


Chúng ta vẫn tưởng rằng con người vốn đầy lí trí, quyết định có suy tính cẩn thận. Nhưng Daniel Kahneman và đồng nghiệp Amos Tversky, trong cuốn Thinking, fast and slow (tạm dịch: Nghĩ nhanh, nghĩ chậm), đã chứng minh trong cuộc sống hàng ngày và cả đời sống kinh tế, chúng ta thường quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính, và chủ quan. Đây là một công trình tâm lý học có tính hàn lâm cao, nhưng được viết rất dễ hiểu và vui nhộn.

Một cuốn sách hay, theo tôi, phải mang tính thách thức quan điểm của người đọc nhưng đồng thời phải mang tính giải trí. Cuốn Thinking, fast and slow (tạm dịch Nghĩ nhanh, nghĩ chậm) của Daniel Kahneman đáp ứng hai tiêu chí này. Trong một thời gian dài, các học giả đã gieo vào chúng ta một quan điểm là chúng ta – con người – như là những người đầy lí trí, quyết định một cách có tính toán cẩn thận. Nhưng Daniel Kahneman và đồng nghiệp của ông là Amos Tversky chứng minh rằng quan điểm đó sai. Trong cuộc sống hàng ngày, kể cả đời sống kinh tế, chúng ta thường đi đến những quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính, và chủ quan. Bằng một văn phong đơn giản và dí dỏm, Gs Daniel Kahneman dìu dắt chúng ta qua những thí nghiệm mà ông và đồng nghiệp Amos Tversky đã thực hiện từ thập niên 1970, và kết quả của những thí nghiệm đó được tích tụ thành một cuốn sách rất uyên bác, nhưng cũng rất dễ hiểu và giải trí. 

Daniel Kahneman là người gốc Do Thái, ông tốt nghiệp tâm lí học từ Đại học Jerusalem (1954), và phục vụ trong quân đội Do Thái như là một chuyên gia tâm lí. Năm 1958 ông sang Mĩ học và tốt nghiệp tiến sĩ tâm lí học từ Đại học California, Berkeley (1958). Hiện nay ông là giáo sư tâm lí học thuộc Đại học Princeton. Năm 2002, ông được trao giải thưởng Nobel về kinh tế vì những phát kiến về lí thuyết viễn cảnh (Prospect Theory). Ông được xem là một nhà tâm lí học vĩ đại nhất trên thế giới còn sống. 

http://www.newyorker.com/online/blogs/books/84826253.jpg
Gs Daniel Kahneman

Người viết bài này “làm quen” với những công trình nghiên cứu của Kahneman và Tversky từ đầu thập niên 2000. Lúc đó, tôi mới bắt đầu một dự án nghiên cứu về nguy cơ gãy xương theo nguyên lí cá nhân hoá điều trị (personalized medicine). Vấn đề được đặt ra là truyền đạt thông tin về nguy cơ đến bệnh nhân như thế nào để có hiệu quả nhất, và tại sao dù có nhiều thuốc điều trị loãng xương rất có hiệu quả và an toàn, nhưng bệnh nhân không chịu dùng thuốc. Những thí nghiệm cực kì sáng tạo và lí thú của Kahneman và Tversky đã soi sáng và cung cấp cho tôi rất nhiều câu trả lời. Đọc những gì Kahneman viết tôi thấy hình như ông biết rất nhiều về tôi! Đến năm 2002 thì Kahneman được trao giải Nobel về kinh tế học vì lí thuyết viễn cảnh. Còn Tversky thì qua đời trước đó vài năm (nếu còn sống, chắc chắn ông đã chia sẻ giải thưởng với Kahneman). Có thể nói cuốn sách này là một đúc kết những nghiên cứu đẳng cấp Nobel.

http://benatlas.com/wp-content/uploads/2009/05/amostversky.jpg
Amos Tversky 


Trong tác phẩm Nghĩ nhanh và nghĩ chậm, Kahneman mô tả hai cách thức (hay nói đúng hơn là hai hệ thống) mà não chúng ta vận hành. Ông gọi đó là hệ thống 1 hệ thống 2. Hệ thống 1, còn gọi là cơ chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuông, và tiềm thức. Hệ thống 2, còn gọi là cơ chế nghĩ chậm, đòi hỏi nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic, có tính toán, và ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lí mang tính tiền phong, Kahneman và Tversky chứng minh rằng con người chúng ta thường đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là nghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách chỉ để chỉ ra những sai lầm trong hệ thống 1. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những gì chúng ta tưởng: đó là chúng ta không biết những gì chúng ta không biết! 

Suy nghĩ nhanh, theo cách nói ví von của người Việt chúng ta, là trông mặt mà bắt hình dong. Tức là một cơ chế suy nghĩ dựa vào những tín hiệu sơ khởi, thay vì tính toán cẩn thận và suy đoán dựa vào logic. Có thể liên tưởng về cơ chế suy nghĩ nhanh qua vài ví dụ cụ thể. Khi lái xe gắn máy trên đường đến một ngã tư, chúng ta có khi chỉ cần nhìn vào ánh mắt người lái xe đối diện để quyết định băng qua đường hay không. Trước thông tin rằng tỉ lệ mắc bệnh ung thư cao hơn ở vùng nông thôn hơn vùng thành thị, chúng ta có thể nghĩ ngay rằng vì dịch vụ y tế ở vùng nông thôn còn kém hơn vùng thành thị. Nhưng nếu có thông tin cho rằng ung thư vùng nông thôn thấp hơn vùng thành thị, có lẽ chúng ta nghĩ rằng cư dân nông thôn không sống trong môi trường ô nhiễm như cư dân thành thị, nên cư dân nông thôn có nguy cơ ung thư thấp hơn thành thị. Việc người dân di tản khỏi khu vực Sông Tranh II có lẽ là một quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh. Chính cơ chế suy nghĩ nhanh này giúp cho con người tồn tại qua hàng triệu năm, dù trong thực tế cũng sai lầm rất nhiều. 

Những sai lầm trong cơ chế 1 được “chứng minh” qua hàng loạt thí nghiệm rất nổi tiếng. Có lẽ thí nghiệm nổi tiếng nhất là Vấn đề Linda. Trong thí nghiệm này, các đối tượng tham gia nghiên cứu được cung cấp thông tin về một phụ nữ tên là Linda (chỉ là nhân vật hư cấu), 31 tuổi, độc thân, tính tình thẳng thắn, rất thông minh, và thời còn là sinh triết, cô thường hay quan tâm đến những vấn đề kì thị chủng tộc và bất bình đẳng xã hội. Những người tham gia nghiên cứu được hỏi rằng Linda là:

(a)  một nhân viên phục vụ khách hàng ở ngân hàng (bank teller); hay
(b)  là một bank teller và đấu tranh cho nữ quyền (feminist).

Phần lớn (85%) người tham gia nghiên cứu chọn câu trả lời (b) là khả năng cao nhất. Nhưng câu trả lời đó vi phạm qui luật xác suất. Kahneman và Tversky gọi sai lầm này là nghịch lí liên hợp (Conjunction fallacy).

Nghịch lí tỉ suất nền (base rate fallacy). Trong một thí nghiệm khác, Kahneman và Tversky cho một nhóm bác sĩ có kinh nghiệm trên 15 năm về một vấn đề rất đơn giản như sau. Trong một cộng đồng có 1% nữ bị bệnh ung thư. Các nhà khoa học có một phương pháp xét nghiệm rất chính xác để phát hiện ung thư. Với phương pháp này đối với những người mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả dương tính 95%; đối với những người không mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả âm tính 80%. Nếu một phụ nữ trong cộng đồng đó đi xét nghiệm và có kết quả dương tính, khả năng mà phụ nữ đó mắc bệnh ung thư là bao nhiêu? Đại đa số các bác sĩ cho rằng khả năng mắc bệnh là 90%. Nhưng trả lời đó sai. Sai là vì bác sĩ (hay chúng ta nói chung) lẫn lộn giữa xác suất mắc bệnh nếu kết quả dương tính với xác suất có kết quả dương tính nếu cá nhân mắc bệnh. Kahneman gọi đây là nghịch lí tỉ suất nền, và hệ quả là nhiều bệnh nhân bị chẩn đoán sai, vì bác sĩ dùng cơ chế suy nghĩ nhanh. 

Trong một thí nghiệm nổi tiếng, Kahneman và Tversky cho các đối tượng chọn một trong 2 bao thư. Bao thư 1 có 200 USD một cách chắc chắn; và bao thư 2 đòi hỏi đối tượng phải tung một đồng xu, nếu mặt sấp xuất hiện thì được 400 USD, mặt ngửa thì không có đồng nào. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu lựa chọn thứ nhất (dù hai lựa chọn này thật ra có giá trị kì vọng y chang nhau)! Kết quả này cho thấy chúng ta thích sự chắc chắn. Xu hướng này dẫn Kahneman và Tversky phát triển lí thuyết viễn cảnh, và là một công trình được trao giải Nobel kinh tế năm 2002. 

Một thí nghiệm khác đặt đối tượng trong tình huống sau đây: một đại dịch sẽ giết chết 600 người nếu bạn không làm gì cả. Một vaccine đã được thử nghiệm sẽ có khả năng cứu 200 người một cách chắc chắn, nhưng sẽ thất bại cứu 400 người còn lại; hoặc dùng một vaccine chưa qua thử nghiệm có thể cứu sống 200 người và thất bại trong việc cứu 400 người khác. Kết quả thí nghiệm cho thấy 72% đối tượng chọn vaccine đã qua thử nghiệm. 

Một thí nghiệm cực kì độc đáo cho thấy chúng ta rất dễ bị chi phối bởi con số lớn. Đối tượng nghiên cứu được đưa cho 2 lựa chọn: (a) với phẫu thuật A, 90% sống sót; (b) với phẫu thuật B, 10% tử vong. Phần lớn đối tượng chọn phẫu thuật A. Một thí nghiệm tương tự, mà theo đó một nhóm đối tượng được cho biết rằng xác suất mà họ mắc bệnh là 1 trên 10, một nhóm khác được cho biết xác suất mắc bệnh là 100 trên 1000. Kết quả cho thấy nhóm thứ hai có xu hướng chấp nhận điều trị hơn nhóm 1, dù nguy cơ mắc bệnh hai nhóm y chang nhau! Kahneman và Tversky gọi đó là hiệu ứng khung (framing effect).
Chúng ta thường đánh giá vấn đề qua tham khảo vào kinh nghiệm nổi bật vào thời điểm gần nhất, chứ không phải xem xét đến toàn bộ quá trình theo thời gian. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một nhận xét của Nhạc sĩ Đức Huy rằng người ca sĩ có thể bắt đầu bài hát không đạt, nhưng khi đoạn cuối bài hát được diễn tả thành công thì khán giả sẽ xem đó là một trình diễn thành công. Kahneman xem đây là điểm mà chúng ta rất giống … chuột. 

Nếu một nhà khoa học rất giỏi về một lĩnh vực nào đó (như được trao giải Nobel y học), người ta thường giả định rằng nhà khoa học đó cũng am hiểu tất cả những vấn đề khác, dù nhà khoa học bản thân họ không nghĩ vậy. Điều này giải thích tại sao khi cần tranh thủ vận động một vấn đề xã hội nào đó, người ta thường tìm đến những ngôi sao điện ảnh, khoa học, thể thao, v.v. Kahneman gọi đó là hiệu ứng halo (halo effect) cũng là một cơ chế suy nghĩ theo hệ thống 1. 

Cuốn sách hay công trình nghiên cứu của Kahneman có nhiều ý nghĩa cho những nhà hoạch định chính sách. Bài học là khi ra chính sách hay những qui định có ảnh hưởng đến nhiều người trong cộng đồng, cần phải vận dụng chứng cứ một cách cẩn thận, chứ không nên cảm tính và bồng bột (theo hệ thống suy nghĩ nhanh) vì dễ dẫn đến sai lầm. Chúng ta còn nhớ vụ cấm buôn bán mắm tôm chỉ vì niềm tin rằng nhiều bệnh nhân tả từng ăn mắm tôm trước đó, và kết luận rằng mắm tôm là nguyên nhân gây dịch tả. Có thể xem đó là một suy nghĩ theo hệ thống 1. 

Không chỉ có ý nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách, cuốn sách còn có ích cho những người hành pháp. Ý nghĩa từ những hiệu ứng Linda, hiệu ứng khung, nghịch lí tỉ suất nền, v.v. là không thể và không nên trông mặt mà bắt hình dong, hay chỉ dựa vào tín hiệu bề ngoài mà đi đến kết án hay kì thị một cá nhân. Có trường hợp người ta lí giải rằng 60% những ca tội phạm thiếu niên là xuất phát từ những gia đình li dị hay đổ vỡ, và đi đến kết luận rằng li dị là một nguyên nhân hay nguồn gốc của tội phạm thiếu niên. Nhưng kết luận đó không logic và rất có thể sai. Đó cũng là một nguỵ biện rất phổ biến (prosecutor fallacy). Nguỵ biện xảy ra là vì người ta lười biếng suy nghĩ, và vì lười biếng suy nghĩ nên người ta chỉ sử dụng hệ thống 1 (mà không sử dụng hệ thống 2). 

Ngày nay, ra nhà sách, chúng ta dễ thấy khá nhiều sách về hành vi con người. Nhiều sách hay với những ví dụ rất sống động kèm theo những thí nghiệm được xem là tiền phong, rồi lí giải đòi thay đổi chính sách, luật pháp, và cách kinh doanh. Nhưng cuốn Nghĩ nhanh, nghĩ chậm thì khác. Đây là cuốn sách chỉ tập trung vào khoa học, với những trải nghiệm cá nhân của tác giả. Mục tiêu của cuốn sách, như Kahneman viết, là “làm giàu ngữ vựng cho mọi người” khi đi đến một quyết định trong cuộc sống. Tác giả còn viết rằng ông kì vọng cuốn sách sẽ giúp ích cho độc giả trong những câu chuyện phiếm và trao đổi – hay nói theo Nguyễn Du là mua vui cũng được một vài trống canh. Tôi nghĩ tác giả đã đạt hơn cái mục tiêu khiêm tốn đó. Đây là một cuốn sách mà bất cứ ai đọc cũng sẽ thấy hào hứng ngay từ chương đầu, và kết thúc với sự sảng khoái, làm cho chúng ta hiểu về chúng ta nhiều hơn. Một cuốn sách như thế nên được dịch sang tiếng Việt và có mặt trên giá sách của những ai quan tâm đến hành vi và kinh tế.

Chú thích: 

(*) “Thinking, fast and slow” (499 trang) của Daniel Kanehman, Nhà xuất bản Farrar, Straus, and Giroux, 2011. Sách có bán trên Amazon.com.
Read more ...

Mạn đàm về nghiên cứu khoa học ở Việt Nam

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012
http://coquan.vn/upload/hanhchinh/image/20110621/document_101308631724.jpegVài tuần trước, tôi có hân hạnh tiếp chuyện phóng viên Hoà Ái của Đài RFA (Mĩ) về tình trạng khoa học bên nhà. Có lẽ xuất phát từ những bài báo trong nước về hiện trạng khoa học ở Việt Nam, nên phóng viên muốn hỏi tôi vài vấn đề liên quan đến nguyên nhân và giải pháp. Toàn những vấn đề vĩ mô, khó có câu trả lời đầy đủ, nhưng tôi cũng cố gắng nói lên vài ý kiến cá nhân. Bài này có thể xem như là một bổ sung cho những ý kiến trong bài ngày hôm qua.  Xin giới thiệu bài phỏng vấn đến các bạn. Vì là phỏng vấn trực tiếp và văn nói, nên có khá nhiều “rằng thì là” :-). N.V.T


http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-scie-resr-relaga-11082012071114.html

Hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam bị tụt hạng

Hoà Ái, phóng viên RFA
2012-11-08
Kết quả mới nhất của nhóm nghiên cứu SCImago công bố về năng lực và chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam tiếp tục bị tụt hạng. 

Có phải hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam đang ở mức báo động? Hòa Ái phỏng vấn Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn thuộc viện nghiên cứu Y Khoa Garvan và Đại học New South Wales xoay quanh đề tài này. Cuộc phỏng vấn được phát trong 2 kỳ.

Phương thức đánh giá

Trả lời câu hỏi đầu tiên về kết quả công bố của viện SCImago, một tổ chức uy tín về đánh giá khoa học, có phản ánh đúng thực tiễn tình hình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hay không?

GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Trước hết, giới báo chí nói chung có một hiểu lầm ở đây. Tổ chức SCImago của Tây Ban Nha, họ nói rất rõ là họ không có xếp hạng đại học và nghiên cứu trên thế giới. Họ chỉ cung cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu khoa học và chất lượng nghiên cứu khoa học để các nhà chức trách cũng như giáo sư tự quyết định và đánh giá để biết mình đang ở đâu trên bản đồ khoa học thế giới.

Qua báo cáo đó, tôi nghĩ rằng chúng ta cũng có thể biết một trung tâm hay một đại học đang đứng ở đâu trong vùng và trên thế giới. Trong lần này họ đưa vô danh sách 4 trường, viện của Việt Nam. Đó là Viện Khoa học và Công Nghệ ở Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. HCM, Đại học Quốc Gia Hà Nội và Đại học Bách Khoa Hà Nội. Mỗi một trường, họ đánh giá qua 7 chỉ số.

Thứ nhất là đầu ra về nghiên cứu khoa học; thứ hai là tỉ lệ hợp tác quốc tế; thứ ba là số công trình được công bố trên các tập san được xem như hàng đầu trong mỗi chuyên ngành; thứ tư tôi tạm dịch là chỉ số tác động tức là chỉ số phản ảnh mức độ ảnh hưởng của công trình nghiên cứu như thế nào; thứ năm là chỉ số chuyên biệt hóa; thứ sáu là chỉ số xuất sắc; và mới đây nhất là chỉ số lãnh đạo.

Sở dĩ tôi phải nêu ra 7 tiêu chí bởi vì nếu dựa vào một tiêu chí thì một đại học này có thể được xếp hạng nhất, đại học kia được xếp hạng ba, nhưng nếu ví dụ dựa vào tiêu chí chất lượng thì đại học đó có thể xếp hạng ba thay vì hạng nhất. Tức là thay đổi tùy theo tiêu chí mình sử dụng. Do đó chuyện các đại học Việt Nam bị thay đổi vị trí tăng hay giảm tùy theo tiêu chí nào, cũng không có ngạc nhiên.

Tuy nhiên, nhìn mặt tổng thể thì bảng xếp hạng cung cấp thông tin cho dù ở tiêu chí nào thì các đại học Việt Nam vẫn ở vị trí rất thấp so với các nước trong vùng như Thái Lan hay Malaysia, còn so với thế giới thì thấp hơn nữa. Ở đây, tôi phải thêm một chú ý mang tính tích cực hơn là mặc dù Đại Học Quốc Gia TP. HCM kém về số lượng hơn so với các đại học khác trong vùng nhưng về chất lượng nghiên cứu thì cao hẳn hơn. Tôi nghĩ rằng đó là điều hình như báo chí Việt Nam không để ý. Cái nào kém thì nói kém, cái nào tốt thì cũng nên ghi nhận ở đây.

Nguyên nhân xa gần

Hòa Ái: Thưa GS, theo như báo chí trong nước đăng tải thì các nhà nghiên cứu khoa học nêu lên, các công trình nghiên cứu khoa học của họ không được theo như ý muốn vì rất nhiều nguyên nhân. Có thể nói là không có các hội đồng đánh giá độc lập hay là khâu đào tạo tổ chức không hợp lý, hay thậm chí vì cơ chế tài chính khắt khe nên có thể nhà khoa học phải nói dối để theo đuổi công trình nghiên cứu của mình. Theo GS. đánh giá thì cái gốc của vấn đề là ở chổ nào?

GS.TS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi nghĩ đây là một câu hỏi chắc có lẽ cần đến một hội thảo khoa học để mổ xẻ vấn đề cho đến nơi đến chốn. Riêng tôi thì cũng chỉ có một số nhận xét cá nhân thôi. Tôi nghĩ khá nhiều về những lý do các đồng nghiệp trong nước vừa nêu, tôi thấy đều đúng cả. Theo tôi, là người ở ngoài nhìn vào, thì có lẽ có 5 lý do chính.

Lý do thứ nhất, có lẽ ai cũng thấy, các đại học ở Việt Nam chưa chú trọng vào nghiên cứu khoa học như là một cứu cánh. Các đại học lớn như Đại Học Quốc Gia và Đại Học Bách Khoa thì cũng có nghiên cứu nhưng các giảng viên, giáo sư ở đó xem giảng dạy là nhiệm vụ chính, nghiên cứu là phụ thôi. Do đó, họ không có động cơ để theo đuổi nghiên cứu khoa học.

Thứ hai, một điều nhiều người nói đi nói lại rất nhiều lần là sự tách rời giữa các trường đại học với các viện nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam có rất nhiều viện nghiên cứu khoa học, có thể đếm tới hàng trăm, có người nói là hàng ngàn viện nghiên cứu khoa học độc lập mà người ta không biết họ làm nghiên cứu gì.

Lý do thứ ba về vấn đề phân phối tài trợ. Tôi nghĩ rằng ở Việt Nam không thiếu tiền cho nghiên cứu khoa học đâu. Tại sao tôi nói như vậy? Hiện nay nhà nước Việt Nam đầu tư 2% ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học, tức là 500 triệu mỹ kim, đó không phải là con số nhỏ, nhất là trong tình trạng kinh tế còn nghèo nàn như bây giờ.

Vậy mà mỗi năm, Bộ Khoa học Công nghệ vẫn phải trả lại cho ngân sách nhà nước khoảng mười mấy, hai chục triệu, năm nào cũng vậy. Vấn đề ở đây không phải là thiếu tiền, nhưng cách phân phối làm sao cho hợp lý thì đó là vấn đề. Mà nói đến vấn đề này thì nói nhiều lắm. Vấn đề ở tổ chức xét duyệt rồi phân phối tài trợ không hợp lý, bất bình đẳng và rất là nhiêu khê. Có lần tôi nêu trước đây là về vấn đề phân bố ngân sách nghiên cứu về một số các ngân sách nghiên cứu lớn như cấp bộ, cấp nhà nước thì hầu như không đến tay các đồng nghiệp trong các tỉnh phía nam. Đó là điều rất khó hiểu.

Lý do thứ tư là thiếu các nhà khoa học có tài, có kinh nghiệm cao đẳng cấp quốc tế hoặc có thì cũng không có cơ hội làm việc đúng chổ, đúng việc.
Thứ năm, tôi nghĩ cũng rất là quan trọng, liên quan đến vấn đề văn hóa, đó là tôi gọi là thiếu tính thực học. Trong nước hiện nay có một vấn nạn, có nhiều người thích học bằng tiến sĩ hay thạc sĩ thì những người này học không phải vì khoa học mà mục tiêu của họ học để có bằng cấp tiến thân trong quản lý hành chính hay gì đó, không phải vì mục tiêu sáng tạo tri thức hay đi tìm sự thật. Đó là một điều rất là đáng buồn.

Đó là năm lý do tôi nghĩ rằng làm cho nền khoa học Việt Nam trì trệ cho đến ngày hôm nay.

Giải pháp “cứu nguy”

Hòa Ái: Theo như GS chia sẻ về khía cạnh bên quản lý thì GS dùng từ mô tả là “rất bất bình đẳng”. Theo như kinh nghiệm của GS là một nhà nghiên cứu ở một trong những đất nước có nền nghiên cứu khoa học rất phát triển như ở Úc, thì chính phủ Việt Nam phải nên có những thay đổi chiến lược như thế nào để có bước đột phá mới trong khoa học?

GS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi thì nghĩ rằng chắc chắn phải thay đổi, phải có đổi mới. Nếu không có thay đổi thì tình trạng sẽ như thế này mãi mãi và sẽ cứ tụt hậu so với các nước trong vùng. Điều đó làm cho nhiều người, các đồng nghiệp trong nước cũng vậy, ở ngoài nước thì càng bức  xúc là tại sao đất nước cứ đi xuống mà không thể đi lên? Thành ra phải thay đổi. Tôi nghĩ rằng chỉ dám nói đến những vấn đề vĩ mô mà thôi.

Thứ nhất, như tôi nói về tách rời giữa viện nghiên cứu và trường đại học, thành ra biện pháp thứ nhất tôi nghĩ là phải tổ chức lại các nhóm nghiên cứu. Tiếng Anh gọi là “key laboratory”, tức là những phòng thí nghiệm trọng điểm chứ không thể nào để viện nghiên cứu tách rời đại học. Cứ nhìn qua các nước chung quanh thì mình sẽ thấy. Các nước như Mỹ, Úc, Pháp, rồi Anh thì họ đã tổ chức lại hệ thống nghiên cứu khoa học của họ thành từng nhóm nhỏ. Nhóm nhỏ ở đây hiểu là khoảng từ 5 đến 30 chục người. Và mỗi một nhóm chuyên biệt về một đề tài nào đó trên khắp đất nước. Những nhóm nhỏ như vậy sẽ dễ quản lý và họ tập trung làm rất cụ thể và rất hiệu quả. Trung Quốc mới đây họ bắt chước mô hình này và họ rất thành công. Hàn Quốc cũng vậy.
Thứ hai là thiếu những chuyên gia có kinh nghiệm cao thành ra bây giờ phải thu hút nhân tài. Do đó, phải thu hút những chuyên gia có kinh nghiệm cao trên thế giới, chứ không phải là chỉ ở Việt Nam. Singapore đã làm rồi. Phải bắt đầu với con người, phải thu hút những người có thực tài.

Thứ ba là cần phải khuyến khích chính sách công bố quốc tế, rất là quan trọng. Ở Việt Nam, người ta khi làm ra nghiên cứu người ta không nghĩ đến công bố quốc tế đâu, người ta chỉ nghĩ đến nghiệm thu thôi, mà nghiệm thu không phải là công bố quốc tế. Khi xong nghiên cứu thì không thể nào xem là xong nếu như chưa công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học trên thế giới. Và khi công bố xong, người ta còn thưởng tiền cho các tác giả bài báo các công trình ngiên cứu trên tạp chí quốc tế. Thành ra vấn đề kế tiếp nữa là phải có thiết chế để đánh giá khoa học cho khách quan và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, không phải nghiệm thu như hiện nay.

Điều thứ năm là phải tạo cơ chế đơn giản sao cho nhà khoa học quản lý tài chính của người ta. Tôi rất là sốc khi tôi đọc được bình luận của một vị thứ trưởng nói là “chính cơ chế này làm cho nhà khoa học phải giả dối”. Nhà khoa học mà giả dối thì kinh khủng lắm, chúng tôi không thể nào tưởng tượng được chuyện đó nhưng mà tôi hiểu vị đó nói gì và rất thông cảm. Tôi nghĩ nhà nước phải tin vào khoa học, phải tạo điều kiện cho người ta làm chứ đâu phải như kiểu hiện nay chủ yếu hành là chính. Thành ra đó là năm biện pháp tôi có thể suy nghĩ ra.

Thế nào là một nhà khoa học thành công

Hòa Ái: Còn về phía nhà khoa học thì sao? Nếu như chính phủ thay đổi cách quản lý để việc nghiên cứu được tốt hơn thì khía cạnh nhà khoa học cần phải có những tố chất nào, thưa Giáo sư?

GS Nguyễn Văn Tuấn: Cách đây một hai năm, tôi có viết một cuốn sách đi vào nghiên cứu khoa học, trong đó tôi có đưa ra một số tố chất của người làm khoa học. Nói chung có một số tố chất chủ yếu, chẳn hạn như là một nhà khoa học thành công thì thứ nhất phải sáng tạo ra ý tưởng mới hay một phương pháp mới, làm khoa học rất quan trọng là mình phải đi tiên phong.

Tố chất thứ hai là lúc nào cũng phải mở rộng biên cương về kiến thức. Tất nhiên là khoa học thì phải tập trung vào một đề tài chủ yếu nhưng lúc nào cũng cần nghĩ đến và mở rộng địa hạt nghiên cứu, suy nghĩ đến khả năng ứng dụng của chuyên ngành đang theo đuổi, phải có một bức tranh lớn, phải đọc nhiều, có nhiều thông tin, tham gia nhiều dự án cùng một lúc và tìm những phương pháp mới để mở rộng lãnh vực nghiên cứu của mình.
Thứ ba là phải kiên trì theo đuổi ý tưởng.

Thứ tư, tôi nghĩ là nhà khoa học phải chọn đề tài nghiên cứu mà xã hội quan tâm hay là có tác động đến thực tiễn.

Thứ năm nữa là nhà khoa học thành công phải là một người độc lập. Độc lập ở đây hiểu theo nghĩa là sau thời gian hậu tiến sĩ thì sẽ trở nên người đứng đầu một phòng thí nghiệm (lab) hay một chuyên ngành gì đấy.

Thứ sáu là phải thu hút được một thế hệ nghiên cứu sinh mới. Yếu tố này rất quan trọng vì khoa học mang tính tiếp nối, thành ra phải đào tạo được thế hệ tiếp nối.

Thư bảy là phải hợp tác với các đồng nghiệp trong và ngoài nước.

Thứ tám cũng rất quan trọng là công bố quốc tế, một chuyên gia không có một công trình nào công bố quốc tế thì người ta không coi mình là nhà khoa học đâu.

Đó là một số tố chất tôi có đề cập trong cuốn sách hồi năm rồi để đánh giá thế nào là một nhà khoa học thành công.

Hòa Ái: Vậy thì câu hỏi sau cùng, theo những kinh nghiệm về nghiên cứu khoa học trong một thời gian dài của Giáo sư và Giáo sư cũng có những công trình nghiên cứu rất thành công thì những yếu tố có thể nói vừa khách quan vừa chủ quan trong quản lý cũng như là riêng về những tố chất của các nhà khoa học thì nếu như Giáo sư chia sẻ như vừa rồi thì ở Việt Nam mà thay đổi được như vậy thì những công trình nghiên cứu khoa học ở trong nước sẽ có kết quả tốt đẹp và sẽ thành công trong một tương lai gần, Giáo sư có niềm tin như vậy không, thưa Giáo sư?

GS Nguyễn Văn Tuấn: Tôi nghĩ không ai có thể tiên đoán tương lai ra sao. Mình chỉ có thể nhìn sang các nước mà dự báo thôi. Hàn Quốc hay gần hơn là Thái Lan và Malaysia, theo như tôi nghĩ là những quốc gia này cung cấp những bài học quý báo về những cải cách trong nghiên cứu khoa học và họ đã thành công.

Ý tôi muốn nói rằng khoảng năm 1975 thì những quốc gia này có mức độ cũng như trình độ nghiên cứu khoa học chỉ bằng mình thôi, thậm chí là thấp hơn nhưng chỉ cần 20 năm sau họ đã vượt mình quá xa. Tại sao học có bước nhảy rất thành công như vậy?

Bởi vì học áp dụng một số biện pháp mà tôi đã đề cập đến. Tức là tổ chức lại phòng lab về nghiên cứu rồi thu hút người có tài, có chế độ khuyến khích nhà khoa học công bố quốc tế…Thành ra họ đã thành công. Tôi nghĩ rằng Việt Nam chỉ cần cải cách làm sao để có một cơ chế thông thoáng cho các nhà khoa học thì tôi nghĩ sẽ có rất nhiều lý do để hy vọng về nghiên cứu khoa học sẽ cất cánh một ngày không xa. Còn nếu vẫn cứ giữ như tình trạng hiện nay thì có lẽ bức tranh có vẻ ảm đạm.

Hòa Ái: Chân thành cảm ơn GS.TS. Nguyễn Văn Tuấn dành cho đài ACTD cuộc phỏng vấn này.
Read more ...

Khoa học Việt Nam: không phấn đấu vượt bực, chúng ta sẽ mãi mãi theo sau láng giềng

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012
http://www.dost.hochiminhcity.gov.vn/Hinh%20anh%20ban%20tin/2011-10/_w/logo_jpg.jpgXin giới thiệu một bài viết mới nhất của Gs Phạm Duy Hiển về tình trạng khoa học Việt Nam. Anh Hiển gọi là khoa học Việt Nam đang “mắc kẹt trong phi chuẩn mực, hành chính hoá, và tư duy ăn xổi”. Trước đây, tôi cũng đề cập đến tình trạng thiếu chuẩn mực và hành chính hoá, nhưng ăn xổi thì là một cái gì mới. Việt Nam cần nhiều tiếng nói như của anh Phạm Duy Hiển. Tôi chỉ muốn có đôi dòng bình luận thêm chung quanh những điểm anh Hiển nêu.


Thứ nhất là một tin vui: Bộ Khoa học và Công nghệ đã khẳng định công bố quốc tế là thước đo năng lực nghiên cứu khoa học của đất nước. Điều này thì đã được nhiều người, kể cả người viết bài này, đề cập đến trên dưới 10 năm qua. Nay thì đã thành chính sách. Các nước trên thế giới đều lấy công bố quốc tế làm một thước đo để đánh giá mức độ hoạt động và năng suất khoa học. Xin nhắc lại là “một thước đo”, chứ không phải là thước đo duy nhất. Tôi nghĩ cần phải đặt vấn đề chất lượng nữa. Không thể chỉ nhắm đến số lượng, bởi vì các tập san khoa học quốc tế cũng có nhiều loại, từ thượng vàng đến hạ cám. Chúng ta cần phải nhắm đến những tập san uy tín, có ảnh hưởng càng cao càng tốt.

Thứ hai, tôi thấy phân vân với mục tiêu đặt ra. Chiến lược Khoa học Công nghệ 2011-2020 đặt mục tiêu tăng số lượng công bố quốc tế 15-20% mỗi năm. Tôi nghĩ tỉ lệ tăng trưởng như thế này vẫn còn thấp, và với tỉ lệ này thì nước ta vẫn mãi mãi theo sau các nước láng giềng như Thái Lan và Mã Lai. Thật ra, hiện nay, tỉ lệ tăng trưởng số bài báo khoa học (ISI) có năm cũng đã đạt 15-20% (xem Bảng 1), nhưng không đều. Số liệu tôu thu thập từ 1970 đến nay cho thấy tỉ lệ tăng trưởng là khoảng 13%/năm. Do đó, mục tiêu tăng trưởng đề ra tôi e rằng còn khiêm tốn.

Bảng 1. Số bài báo khoa học trên các tập san ISI trong thời gian 2000 – 2011
Năm
Số bài báo
Tỉ lệ tăng trưởng so với năm trước (%)
2000
312
 
2001
361
15.7
2002
362
0.3
2003
483
33.4
2004
452
-6.5
2005
574
27.0
2006
629
9.6
2007
769
22.2
2008
943
22.6
2009
988
4.8
2010
1228
24.3
2011
1324
7.8

Năm 2011, Thái Lan công bố ~5500 bài báo khoa học. Trong cùng năm, Mã Lai công bố ~7300 bài. Hai nước này có tỉ lệ tăng trưởng khoảng 13-15%/năm. Điều này nói lên rằng với tỉ lệ tăng trưởng như Chiến lược hoạch định, đến năm 2021 số công bố quốc tế của ta chỉ mới bằng Thái Lan năm 2011, và 2023 chúng ta cũng chỉ bằng Mã Lai năm 2011. Nếu không có mục tiêu cao hơn, chúng ta sẽ mãi mãi thấp kém hơn Thái Lan và Mã Lai.

Thứ ba là khoa học Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào “ngoại lực”. Khoảng 80% những công trình khoa học của Việt Nam là có hợp tác với nước ngoài. Tỉ lệ này không thay đổi trong vòng 10 năm qua. Cần nói thêm là tỉ lệ hợp tác quốc tế ở Thái Lan là khoảng 50%, Malaysia (40%), và Philippines (70%). Hợp tác quốc tế là xu hướng chung trong khoa học, nhưng tỉ lệ 80% không còn là một tỉ lệ lành mạnh nữa, mà phản ảnh một nền khoa học lệ thuộc.

Cần phải bỏ cơ chế nghiệm thu. Tôi rất đồng ý với Gs Hiển là nghiệm thu chỉ là một cách "hành là chính" chứ chẳng giúp ích gì cho khoa học. Gs Hiển viết "Để được nghiệm thu lại phải có đầy đủ các chứng từ, hoá đơn thanh toán hợp lệ. Chỉ có bài báo quốc tế là không đòi hỏi". Thật là lạ lùng cách quản lí khoa học như thế! Thật ra, còn nhiều cải cách khác phải làm, trong đó cải cách cách thức xét duyệt đề cương nghiên cứu.  Theo tôi thấy, cần phải làm một cách chuyên nghiệp hơn, với những hội đồng thật sự chuyên môn và có kinh nghiệm, chứ như hiện nay thì làm rất nhiều người nản lòng không muốn tham gia nghiên cứu khoa học. 

Nói tóm lại, tôi thấy Chiến lược khoa học & công nghệ của Bộ là một bước tiến mới, rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, tôi e rằng đặt mục tiêu tăng trưởng 15-20%/năm là còn quá thấp. Cần phải đặt mục tiêu tăng trưởng cao hơn, bền vững hơn, và đặt nặng nội lực sao cho đến năm 2020 tỉ lệ hợp tác quốc tế là 60% (tức 40% những bài báo từ VN phải do người Việt Nam chủ trì hay tác giả chính). Nếu không có một bước đột phát về tăng trưởng, chúng ta sẽ mãi mãi bị các nước láng giềng bỏ xa. Không một người Việt Nam nào muốn thấy cái viễn cảnh đó. 

N.V.T
=====
http://anhbasam.wordpress.com/2012/11/19/1398-khoa-hoc-viet-nam-mac-ket-trong-phi-chuan-muc-hanh-chinh-hoa-va-tu-duy-an-xoi/

Khoa học Việt Nam mắc kẹt trong phi chuẩn mực, hành chính hóa và tư duy ăn xổi

Phạm Duy Hiển

Việt Nam là nước đi sau về khoa học và công nghệ (KH-CN). Ta du nhập cách làm KH-CN, ban đầu từ các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu (ở miền Bắc), gần đây từ các nước tư bản Âu-Mỹ. Ý thức hệ và thiết chế của hai hệ thống hoàn toàn khác nhau, song tư duy và cách nghiên cứu khoa học lại khá giống nhau. Học họ, nhưng ta chẳng giống ai, có chăng chỉ là những bề nổi bên ngoài, như các danh hiệu giáo sư, tiến sỹ, còn cốt lõi bên trong thì theo cách tư duy của mình.

Từ chối chuẩn mực phổ quát trong nghiên cứu khoa học

Ở nước ngoài, chức danh tiến sỹ khẳng định anh đã vượt qua những đòi hỏi gắt gao về học thuật để có thể bắt đầu theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học, hoặc giảng dạy đại học. Ở ta, thiếu tấm bằng tiến sỹ chẳng những không vênh vang được với thiên hạ mà không thể chen chân vào nhiều chức quan. Có nơi còn quy định 50% cán bộ thuộc thành ủy quản lý phải có bằng tiến sỹ (TuanVietnam.net, 29/10/2012). Theo kế hoạch của Bộ GD-ĐT, đến năm 2020 Việt Nam phải có sáu vạn tiến sỹ để đáp ứng quy mô mở rộng hệ thống đại học với 450 sinh viên trên một vạn dân, không cần biết hiện có bao nhiêu người hướng dẫn và phòng thí nghiệm đáp ứng yêu cầu. Cách quy hoạch ngược đời này đang lạm phát ồ ạt bằng tiến sỹ, thực học không cần, chuẩn mực khoa học bị gạt bỏ, chưa kể bằng dởm, viết luận án thuê, đang tràn lan (ANTĐ, 28/10/2012).   

Ở nước ngoài, giáo sư phải là người sáng tạo ra tri thức mới qua hàng loạt công trình được đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới trích dẫn và sử dụng. Ở ta, trong Quy chế bổ nhiệm giáo sư mới sửa đổi gần đây để tiến gần hơn đến thông lệ quốc tế vẫn chưa có điểm sàng tối thiểu, chẳng hạn yêu cầu giáo sư phải có một vài bài báo quốc tế. Giáo sư ở ta được tính điểm khoa học chủ yếu dựa trên 900 ấn phẩm nội địa, nhưng chưa có tạp chí nào trong số này, kể cả những tạp chí tiếng Anh, lọt vào Web of Knowledge của Thomson Reuter (ISI). Đây là cơ sở dữ liệu chứa những thông tin cơ bản về các công trình khoa học có phản biện quốc tế đăng trên một vạn tạp chí hàng đầu, bao quát mọi ngành khoa học, kỹ thuật, xã hội, nhân văn và nghệ thuật.     

Tuy không đâu quy định chính thức, song ISI được giới khoa học khắp nơi xem như chuẩn mực, một bộ lọc bảo đảm chất lượng đội ngũ nghiên cứu khoa học, qua đây khẳng định chỗ đứng của nhà khoa học trên mặt tiền thế giới. Các tổ chức quốc tế cũng dựa vào số bài báo có phản biện quốc tế và số bằng sáng chế để xếp hạng đại học, trình độ khoa học và năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Cách làm này chưa thể xem là tuyệt hảo, song tương tự như GDP, tuy còn khiếm khuyết vẫn được dùng làm thước đo sức mạnh của nền kinh tế. Cho nên né tránh các diễn đàn khoa học quốc tế chẳng khác nào vận động viên cấp quốc gia chê đấu trường Olympic. 

Mãi gần đây, công bố quốc tế mới được dùng làm căn cứ để đánh giá các đề tài khoa học cơ bản. Nhưng công bố quốc tế lại không đòi hỏi đối với các nghiên cứu ứng dụng, kỹ thuật, xã hội, nhân văn chiếm hầu hết ngân sách và nguồn nhân lực khoa học của đất nước, lại có tác động trực tiếp đến quốc kế dân sinh. Các ngành xã hội nhân văn chiếm ba phần tư số ấn phẩm khoa học nội địa hầu như không có mặt trên các tạp chí quốc tế. Các kết quả nghiên cứu này đúng sai đến đâu, rất khó biết. Trong nhiều thập kỷ gần đây diện mạo khoa học xã hội nhân văn trên thế giới đã thay đổi hoàn toàn nhờ có sự xâm nhập của toán học và các khoa học tự nhiên. Nhiều hướng nghiên cứu đa ngành xuất hiện, khoa học tự nhiên và xã hội đan xen nhau, không thấy đâu phân chia riêng rẻ như ở ta. Khoa học xã hội nhân văn của ta đang lạc lỏng khỏi thế giới.      

Vì sao cho đến nay các diễn đàn khoa học quốc tế không được chấp nhận? Trong số các giáo sư được bổ nhiệm mấy năm gần đây chỉ những người làm Toán và Vật lý có 4-5 bài báo quốc tế trở lên, đa số những giáo sư nghiên cứu ứng dụng, kỹ thuật và xã hội, nhân văn chỉ công bố công trình trong nước. Nhiều người trong số này lập luận rằng nghiên cứu ứng dụng cốt mang lại lợi ích kinh tế thiết thực, cần gì những mục tiêu hàn lâm. Lập luận này phù hợp với quan điểm nhiều người trong giới quản lý và các cơ quan cấp kinh phí, nên có tác động đến chính sách.

Trên thực tế rất khó đánh giá một công trình nghiên cứu mang lại “lợi ích kinh tế thiết thực” bằng cách nào (xem phần sau). Vả lai, trong số hàng triệu công trình nghiên cứu hàng năm trên thế giới chỉ một số rất ít có tiềm năng trực tiếp tạo ra những ứng dụng nào đó. Trong khi đó, nghiên cứu khoa học có sứ mạng tìm ra tri thức mới, mà cái mới lại rất dễ khẳng định qua bài báo có phản biện quốc tế. Những khám phá trong khoa học cơ bản là tri thức mới đã đành, những quy luật tự nhiên, xã hội ở Việt Nam mà thế giới chưa biết, những phiên bản ứng dụng có thêm phát hiện mới trong điều kiện cụ thể ở nước ta … vẫn cứ rất mới với thế giới, miễn là nhà khoa học phải am tường mọi kết quả nghiên cứu và phương pháp luận hiện đại nhất, từ đó tìm được chỗ đứng dành cho kết quả nghiên cứu của mình trên mặt tiền khoa học.       

Cũng phải thừa nhận rất khó tìm được chỗ đứng trên mặt tiền khoa học nếu không có thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm và hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Chính khó khăn này giải thích tại sao công bố quốc tế của Việt Nam nghiêng hẳn về Toán và các môn lý thuyết. Số bài báo quốc tế về khoa học thực nghiệm, ứng dụng và kỹ thuật quá ít, không tương xứng với quy mô nhân lực và đầu tư, và ít hơn hẳn các nước xung quanh như Thái Lan, Malaysia.        
Bước đột phá trong chiến lược KH-CN 2011-2020

Gần đây lãnh đạo Bộ KHCN đã tạo ra bước đột phá rất đáng mừng, chính thức khẳng định công bố quốc tế là thước đo năng lực nghiên cứu khoa học của đất nước. Chiến lược KH-CN 2011-2020 (sau đây gọi tắt là Chiến lược) nêu rõ mục tiêu (thứ hai) tăng số lượng công bố quốc tế từ các đề tài sử dụng ngân sách nhà nước trung bình 15-20%/năm. Mục tiêu thứ năm lại ghi rõ đến năm 2020 hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giớí.

Tăng số lượng công bố quốc tế 15-20%/năm là mục tiêu hoàn toàn khả thi, Ngay trong mười năm 2000-2009 chúng ta đã đạt tốc độ 15-16%/năm, ngang với Thái Lan và Malaysia, chỉ kém Trung Quốc (20%/năm), nhưng nhanh hơn Philippine và Indonesia (5,7%/năm). Song số lượng công bố quốc tế chưa phản ảnh đầy đủ năng lực nghiên cứu và hiệu quả đầu tư cho khoa học của một quốc gia. Phân tích các công bố quốc tế của Việt Nam và 11 nước Đông Á cho thấy chất lượng các bài báo (dựa trên chỉ số trích dẫn trung bình) của Việt Nam còn thấp, nhiều ngành trực tiếp liên quan đến quốc kế dân sinh chưa có công bố quốc tế, và phần lớn đồng tác giả Việt Nam không đóng vai trò chính trong các công trình. Số công trình do nội lực chỉ chiếm 30%, vào loại thấp nhất khu vực, so với 90% ở Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan (xem bài “A comparative study of research capability of East Asian countries and implication for Vietnam” đăng trên Higher Education, Vol. 60, trang 615-625, bản dịch tiếng Việt trên Tia Sáng, 22/06/2010).

Bước đột phá trong “Chiến lược” sẽ đưa chúng ta thoát khỏi tình trạng lạc lỏng bấy lâu nay để sớm sánh vai với các nước, nhanh chóng tiếp cận mặt tiền khoa học. Song muốn đạt được các mục tiêu trong “Chiến lược” cần có những đột phá mới để khoa học Việt Nam khỏi bị mắc kẹt trong những tư duy, cơ chế và cơ cấu tổ chức bất cập hiện nay. 

Hành chính hóa hoạt động nghiên cứu khoa học 

Chỉ bám vào nguồn kinh phí duy nhất từ ngân sách nhà nước, lại thiếu chuẩn mực nghiêm túc, hoạt động nghiên cứu khoa học rơi vào tình trạng hành chính hóa, do các quan chức hành chính cầm cân nẩy mực. Họ là những người chưa hề nghiên cứu khoa học, hoặc nếu xuất thân từ giới khoa học, họ sẽ ném ngay “hòn gạch gõ cửa” sau khi lọt vào chốn quan trường (Lỗ Tấn, Khổng Phu tử ở Trung Quốc đời nay, bản dịch Phan Khôi). Đối với nhiều người trong số họ, khoa học giờ đây chỉ còn là chiếc áo khoác bên ngoài, bên trong là danh, quyền và tiền, những cạm bẫy rất ít ai thoát khỏi.   

Hành chính hóa nghiên cứu khoa học đặt ra luật chơi hành chính. Đề tài các cấp vận hành theo kiểu hợp đồng kinh tế như ra đầu bài, đấu thầu, tuyển chon, kiểm tra tiến độ v.v…Kinh phí được quyết toán dựa trên số ngày công khai báo cho từng thành viên tham gia, số trang dịch thuật, tiền thuê mướn nhân công, vật tư, hóa chất tiêu hao v.v… Sản phẩm phải mục sở thị như quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn nhà nước, phần mềm, số cơ sở sử dụng các kết quả v.v…. Để được nghiệm thu lại phải có đầy đủ các chứng từ, hóa đơn thanh toán hợp “lệ”. Chỉ có bài báo quốc tế là không đòi hỏi. 

Bởi bài báo quốc tế yêu cầu cao hơn hẳn. Đó là phát hiện mới (new findings), tính độc đáo (originality), góp phần đẩy hướng nghiên cứu lên phía trước (significant advances in field) và phương pháp luận hiện đại (state-of- the art approach). Không cần hội đồng đông người, chỉ một trong hai phản biện lắc đầu, bài báo sẽ bị từ chối. Rõ ràng từ đề tài được Bộ KH-CN nghiệm thu đến bài báo quốc tế được chấp nhận là một khoảng cách rất xa, đầy thách thức, nhiều người đành bỏ cuộc vì không còn kinh phí và thời gian, họ phải lao tiếp vào đề tài mới để tồn tại.     

Song những đề tài, luận án nói trên lại được dùng làm căn cứ bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư. Theo Quy chế, giáo sư phải hướng dẫn chính ít nhất hai nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, chủ trì ít nhất một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ hoặc đề tài cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên. Các tân giáo sư sẽ được phân vai mới trong hệ thống hành chính, chủ trì các đề tài, dự án, chương trình nhà nước, có tiếng nói nặng cân hơn trong các hội đồng xét duyệt và nghiệm thu. Cuộc chơi trên sân nhà có thêm vai diễn mới, không thấy hồi kết.      
             
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học bộc lộ nhiều lỗ hổng làm nơi ẩn chứa cơ chế xin cho, ban phát, vốn là sản phẩm của thời bao cấp. Thời nay, mỗi đề tài, dự án cấp Bộ trở lên thường được cấp từ hàng trăm triệu đến hàng chục tỷ đồng, nên không còn ai ban phát vô tư nữa, kẻ cho người nhận đều phải biết hành xử theo “luật thị trường”. Có hội đồng khoa học để xét duyệt và nghiệm thu, nhưng hội đồng lại do chính bộ máy hành chính lập ra để dễ dàng hợp thức hóa các ý định của mình. Hội đồng chỉ bàn về học thuật không tham gia xét duyệt kinh phí cho đề tài, việc này thường được dàn xếp giữa người ban phát và người nhận. Tiếng nói chính trực thường là thiểu số và sẽ không có cơ hội trong các lần sau. 
Dễ hiểu tại sao nạn gian dối – điều tối kỵ nhất trong khoa học – lại lên ngôi trong những năm gần đây. Khai gian, khai khống các khoản chi là chuyện thường tình. Mọi người đều gian dối nên không ai phải xấu hổ. Bịa số liệu, đạo văn, thuê viết luận án …, ngày càng phổ biến. Nhóm lợi ích hình thành qua các đề tài dự án, che chắn nhau rút ruột kinh phí nhà nước.  Phi chuẩn mực và hành chính hóa làm cho môi trường học thuật ở nước ta ngày một tù mù, vàng thau lẫn lộn, nghiên cứu khoa học trở nên tùy tiện, đề tài nào, công trình nào cũng xem là nghiên cứu, hội thảo nào cũng có thể gán thêm mác khoa học. Báo chí và xã hội không phân biệt được thực và giả, nhà khoa học đích thực với những người khoác áo khoa học. 

Từ môi trường học thuật này không thể xuất hiện đỉnh cao mà chỉ có số đông làng nhàng, thiếu chuyên nghiệp. Lao vào quan trường là con đường tiến thân độc đạo, số người theo đuổi học thuật đến cùng hiếm dần, thành phần ưu tú ngày càng vắng bóng trong lãnh đạo các viện nghiên cứu, trường đại học và ngay ở những cơ quan đầu não về KH-CN. Rất đông tài năng trẻ được đào tạo bài bản ở nước ngoài không tìm thấy đất dụng võ khi trở về nước. Thực trạng này liệu các nhà lãnh đạo có biết?  
        
Không thành công trong nội địa hóa công nghệ

Nhà nước có chủ trương nội địa hóa công nghệ, nhưng thiếu quyết sách. Hàng điện tử và công nghệ cao là mủi nhọn xuất khẩu, dự kiến đến 2020 kim ngạch lên đến 45% để minh chứng cho mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại của đất nước. Riêng chín tháng đầu năm 2012 kim ngạch xuất khẩu lên đến 15 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch. Song phần lớn là sản phẩm từ các doanh nghiệp nước ngoài, và đằng sau những con số ấn tượng trên là một sự thật ê chề: “trong mặt hàng này các doanh nghiệp Việt Nam nhập 100% linh kiện nước ngoài…, phần nội địa hóa chỉ là vỏ nhựa, thùng các tôn và xốp” (SGGP, 25/9/2012).       

Về cơ khí, nội địa hóa công nghiệp ô tô trong hơn hai thập kỷ qua chỉ đạt vài phần trăm (Vneconomy, 03/07/2012), xem như thất bại. Công bằng mà nói, thành tích nội địa hóa công nghệ ấn tượng nhất chính là mấy con tàu trọng tải 50 nghìn tấn được VINASHIN cho hạ thủy và xuất khẩu. Nhưng VINASHIN vỡ nợ, gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. Các học giả có dịp ném đá vào đống đổ nát mà ít ai quan tâm nhặt ra từ đó bài học nội địa hóa công nghệ thành công hay thất bại.       
          
Có nhiều lợi thế hơn VINASHIN, nhưng TKV và EVN cũng không chịu nội địa hóa công nghệ. Theo Quyết định 167/2007/QĐ- TTg, hàng chục nhà máy chế biến alumina sẽ được xây dựng từ năm 2007 dến 2025 trên Tây Nguyên, nhưng không có từ ngữ nào nhắc đến lộ trình nội địa hóa công nghệ, trong khi Việt Nam sở hữu một tiềm năng bô xít lớn thứ năm thế giới. Chính phủ cũng không yêu cầu TKV hứa hẹn đến bao giờ sẽ có công nghệ Việt Nam. Mẻ alumina đầu tiên đang chậm tiến độ hơn hai năm, và trên thực tế cả đại dự án bô xit đang gặp bế tắc, chính phủ phải rút quy mô chỉ còn hai nhà máy thí điểm. Một kết quả nhãn tiền, bởi không chỉ công nghệ, mà cả khoa học cũng đứng ngoài. Bao nhiêu bài toán kinh tế, kỹ thuật, môi trường, xã hội … chưa được nghiên cứu thấu đáo trước khi ra Quyết định. 

Hàng chục nhà máy điện chạy than được EVN xây dựng trên khắp cả nước đều rơi vào tay nhà thầu nước ngoài. Không biết đến bao giờ mới thấy tua bin và máy phát điện do người Việt tự chế tạo. Trong khi đó, EVN đi tắt đến thẳng điện hạt nhân, đề xuất đưa vào vận hành hàng chục lò phản ứng từ 2020 đến 2030. Nhiều ý kiến phản bác hoặc đề nghị đình hoãn kế hoạch mạo hiểm này sau khi xảy ra thảm họa Fukushima. Nhưng chúng đều lọt thỏm trong luồng dư luận phải làm điện hạt nhân mới có quốc phòng mạnh, mới có nước Việt Nam hiện đại vào năm 2020. 

Thành ra hiện đại hay không là ở người tiêu dùng. Nói nôm na, với chiếc iphone 5S bên tay lái Mercedes ngày một phổ biến trên các xa lộ nước ta, người Việt cũng hiện đại không kém người Mỹ, người Đức. Đó là nhờ ta biết đi tắt đón đầu, đúng như lời một vị Bộ trưởng dõng dạc thuyết phục Quốc Hội trước đây ba năm: “xây dựng đường sắt cao tốc Bắc –Nam chính là phương án đi tắt đón đầu lên thẳng hiện đại”. 

Không có bằng sáng chế

Không có sản phẩm từ công nghệ Việt Nam, bằng sáng chế cũng không có nốt. Việt Nam hầu như không có bằng sáng chế đăng ký ở Mỹ (US Patent and Trademark Office, US PTO). Trong khi đó, năm 2011 Indonesia và Philippines sở hữu hàng chục bằng, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc còn nhiều hơn gấp bội. Báo chí đổ lỗi cho 9000 giáo sư/ phó giáo sư (VietnamNet, 5/11/2012) khiến mọi người có dịp mang các vị ra đàm tiếu mà không biết rằng nghiên cứu khoa học khác nghiên cứu công nghệ. Sản phẩm nghiên cứu khoa học là tài sản chung cho mọi người cùng sử dụng, bằng sáng chế là bí quyết công nghệ của doanh nghiệp được bảo vệ và mua bán thông qua cơ quan đăng ký. Chính doanh nghiệp, chứ không phải tác giả, phải bỏ tiền ra để đăng ký bằng sáng chế và hưởng lợi từ việc mua bán nầy. 

Đâu phải làm thơ, nhà khoa học lấy đâu ra bằng sáng chế khi doanh nghiệp không yêu cầu. Thiếu bằng sáng chế chứng tỏ trình độ quá thấp của nền công nghiệp nước nhà. Chúng ta chỉ du nhập công nghệ từ nước ngoài để sản xuất, mà không nội địa hóa để có công nghệ của mình. Nếu cần thay thế công nghệ, doanh nghiệp sẽ đi mua, hơn là đầu tư nghiên cứu.      

Tư duy ăn xổi     

Dù sao, thiếu bằng sáng chế cũng đặt ra dấu hỏi về tính thiết thực và hiệu quả của nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam hai thuật ngữ khoa học và công nghệ luôn gắn với nhau, thậm chí đồng nhất với nhau trong cùng một khái niệm như thị trường khoa học công nghệ, hội chợ khoa học công nghệ v.v… Chính sự nhập nhằng này trong tư duy làm cho nghiên cứu công nghệ đích thực vẫn là bãi đất trống. Đây là hệ quả của tư duy ăn xổi, muốn nghiên cứu khoa học phải cho ra ngay sản phẩm trên thị trường.    
     
Khoa học và công nghệ hỗ trợ lẫn nhau, nghiên cứu khoa học tạo ra mảnh đất cho công nghệ phát triển, và ngước lại. Tuy nhiên ngay trong số hàng triệu bài báo khoa học công bố hàng năm trên thế giới, rất ít công trình có tiềm năng tạo ra công nghệ hay dịch vụ. Nếu có, còn phải trải qua nhiều khâu, đòi hỏi thời gian, công sức và kinh phí. Kết quả nghiên cứu phải được kiểm nghiệm và củng cố bằng nhiều nghiên cứu mới tiếp theo, bảo đảm chất lượng (QA), prototype, quy mô pilot, thử sai (trial by error) nhiều lần trước khi đưa ra ứng dụng. Tư duy ăn xổi bỏ qua các khâu quan trọng này, nên nghiên cứu khoa học sinh ra những đứa trẻ đẻ non, chết yểu, làm thất thoát nguồn kinh phí lớn của nhà nước. Bao nhiêu đề tài chế tạo thiết bị với tính năng “chẳng kém nước ngoài”, nhưng chỉ là đơn chiếc mang trưng bày ở triển lãm, hội chợ, sau vài năm mất hút. Số trẻ đẻ non, chết yểu này nhiều lắm, cứ chọn ra một số đề tài, dự án lớn được Bộ KHCN nghiệm thu từ 5 đến 10 năm trước đây sẽ thấy ngay. 

Tư duy ăn xổi không thể tạo ra những đỉnh cao khoa học, những hướng nghiên cứu mũi nhọn có thể sớm bứt phá lên mặt tiền khoa học thế giới. Các quan chức muốn thấy thành tích ngay trong nhiệm kỳ của mình, lại phải ban phát, rải đều quả thực cho mọi người, năm nay anh có đề tài, sang năm đến lượt anh khác, người làm khoa học giống như dân du canh, không chuyên sâu vào một hướng nhất định. Trong khi đó, khoa học phát triển được nhờ tích lũy và kế thừa, công trình đẻ ra công trình, thành công lẫn thất bại trong công trình trước đều để lại dấu ấn trong các công trình sau. Biết tích lũy và kế thừa, tri thức sẽ tăng tốc theo cấp số nhân, được lưu lại trong đầu con người qua các thế hệ, trở thành một dạng chứng khoán (stock) của các doanh nghiệp, thành truyền thống của phòng thí nghiệm và hình hài của nền khoa học.

Qua cơ chế tích lũy và kế thừa, người tài mới xuất hiện, người khác đứng trên vai họ (stand on the shoulder of giants) để nhìn rõ chân trời phía trước. Nhờ đó các nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành và phát triển, các thế hệ khoa học sinh ra và trưởng thành nối tiếp nhau. Theo “Chiến lược”, năm 2020 nước ta sẽ có 60 nhóm nghiên cứu mạnh. Hy vọng họ, và những người lãnh đạo của họ, sẽ làm nên hình hài nền khoa học nước nhà. Thế giới sẽ biết khoa học Việt Nam qua họ. Các thế hệ tương lai sẽ nhớ đến thế hệ hiện nay qua các công trình khoa học của họ.        


Mấy bước đột phá thay lời kết

Chỉ cần cố gắng làm giống như các nước khác, KH-CN Việt Nam sẽ thoát ra khỏi tình trạng hiện nay. Nghiên cứu khoa học chỉ được xem là đích thực khi tìm ra tri thức mới. Những người cầm quân, như giáo sư, chỉ được bổ nhiệm khi có chỗ đứng nhất định trên mặt tiền khoa học. Công bố quốc tế phải được dùng làm thước đo thay cho các chuẩn mực hành chính. Làm được những việc này sẽ tạo ra bước đột phá lớn đẩy lùi tệ nạn xin cho, ban phát và những tiêu cực trong môi trường học thuật hiện nay. 

Sản phẩm nghiên cứu khoa học là đỉnh cao văn hóa, làm tăng vốn tri thức của đất nước, tác động đến chính sách và nâng cao mặt bằng dân trí, từ đó tạo nên sức mạnh tác động đến phát triển kinh tế xã hội. Trường đại học là nơi gánh vác tốt nhất sứ mạng này. Từ trường đại học tri thức khoa học lan tỏa ra cộng đồng, do đó phải tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên – những người lan tỏa tri thức – được tiếp thu tri thức mới trực tiếp từ những nhà khoa học có chỗ đứng trên mặt tiền khoa học. Nghĩa là phải ưu tiên tập trung nghiên cứu khoa học về các trường đại học và xây dựng lên tại đây những nhóm nghiên cứu mạnh. Chúng ta đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội rồi, giờ đây không được chậm trễ nữa. 

Nghiên cứu công nghệ khác với nghiên cứu khoa học và cần có chỗ đứng trong phát triển kinh tế. Nên cho qua đi niềm tự hào Việt Nam là nơi thu hút vốn FDI, ODA nhiều nhất, thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất…. Không thể mãi mãi làm người tiêu thụ mà phải bước lên bục cao hơn của những người tạo ra tiện ích cho xã hội. Con đường duy nhất là nội địa hóa công nghệ, sau đó tiến lên đổi mới để cạnh tranh. Cho nên rất cần một quyết sách từ phía nhà nước, đừng để doanh nghiệp mãi chạy theo lợi nhuận trước mắt mà quên lợi ích lâu dài của dân tộc. Và sau quyết sách là tầm nhìn và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo KH-CN. Bởi tìm ra cách đi hợp lý trước trăm bề ngổn ngang hiện nay, thật không dễ chút nào.
Read more ...