Pages

Nữ giới bị thiệt thòi trong khoa học

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012
http://capacitybuildingcentreforafrica.org/images/Gender_equality1.jpgLà nữ giới cũng có nghĩa là chịu nhiều thiệt thòi trong sự nghiệp, và tình trạng này thì đã tồn tại rất lâu. Nhưng trong thế kỉ 21, tình trạng đó có được thay đổi theo chiều hướng tốt hơn? Một công trình phân tích thú vị mới công bố trên Scientometrics (tập san chuyên về đo lường khoa học mà tôi hay đọc) cho thấy trong môi trường đại học, nữ vẫn bị thiệt thòi hơn nam. 


Ở Mĩ, cơ hội sự nghiệp khoa bảng ở nữ giới kém hơn đồng nghiệp nam giới. Nếu lấy cơ hội được đề bạt chức danh giáo sư (full professor) thì nữ khoa học Mĩ có xác suất thấp hơn nam. Chẳng những thấp hơn, mà nữ giới có xu hướng rời sự nghiệp nghiên cứu hay giảng dạy trong đại học sớm hơn nam giới.

Ở Thuỵ Điển, tình trạng thiệt thòi ở nữ giới không khá hơn Mĩ. Chứng cứ mà các nhà nghiên cứu đi đến kết luận được thu thập từ dữ liệu về nhân sự của các trường đại học Thuỵ Điển. Thuỵ Điển được xem là môi trường lí tưởng cho nghiên cứu loại này, vì quốc gia này được đánh giá là một trong những nước có bình đẳng giới tính cao nhất trên thế giới. Thật vậy, năm 2008, OECD xếp Thuỵ Điển hạng 3 trên thế giới về bình đẳng giới tính.

Tỉ lệ nữ giới trong đại học. Số liệu về giảng viên đại học và nhà nghiên cứu (có bằng tiến sĩ) của tất cả các đại học Thuỵ Điển cho thấy năm 2010, nữ giới chiếm 36%. Tỉ lệ này vào năm 1995 chỉ 20%. Nói chung tỉ lệ nữ trong “lực lượng” giảng viên đại học tăng dần theo thời gian.

Cơ hội đề bạt. Tính chung, hai tác giả của báo cáo phát biểu rằng xác suất nữ được đề bạt chức danh giáo sư (full professor) thấp hơn nam đến 37%. Nhưng tỉ lệ này không phải bất biến, mà còn tuỳ thuộc vào thời gian sau khi tốt nghiệp tiến sĩ và có qua giai đoạn hậu tiến sĩ hay không (Bảng 1).

Bảng 1: Xác suất được đề bạt giữa nam và nữ giảng viên Thụy Điển 

Số năm sau khi tốt nghiệp tiến sĩ
Chưa qua hậu tiến sĩ
Đã qua hậu tiến sĩ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
5
0.10
0.05
0.10
0.10
10
0.30
0.18
0.50
0.40
15
0.42
0.35
0.75
0.75

Số liệu bảng trên cho thấy trong nhóm chưa qua giai đoạn hậu tiến sĩ, nữ có xác suất được đề bạt thấp hơn nam, nhưng khoảng cách có vẻ hẹp sau 15 năm tốt nghiệp tiến sĩ. Chẳng hạn như xác suất mà nữ chưa qua hậu tiến sĩ được đề bạt (bất cứ chức danh nào) sau 5 năm chỉ 5%, và xác suất này chỉ bằng phân nửa nam giới; tuy nhiên, sau 15 năm thì xác suất nữ được đề bạt tăng lên 35 nhưng vẫn thấp hơn nam (42%).

Nhưng kết quả trên cho thấy trong nhóm đã qua hậu tiến sĩ, xác suất được đề bạt giữa nữ và nam không khác nhau đáng kể. Nếu có khác nhau thì chỉ ghi nhận trong thời gian sau 10 năm tốt nghiệp tiến sĩ, khi nam có xác suất đề bạt là 50%, cao hơn nữ 10%.

Còn ở Việt Nam thì sao? Số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy một xu hướng thú vị tích cực (Bảng 2). Năm 1999, trong số 22606 giảng viên và giáo sư đại học (sẽ gọi tắt là “giảng viên”), có 7697 nữ, tức chiếm khoảng 1/3 tổng số. Tỉ lệ nữ giảng viên tăng liên tục trong thời gian 1999 và 2010. Đến niên học 2010-2011 thì số nữ giảng viên đã lên đến gần phân nửa (46%) tổng số giảng viên đại học.  

Bảng 2: Tỉ lệ nữ trong số giảng viên và giáo sư đại học 1999-2010 

Năm
Tổng số giảng viên
Số nữ giảng viên
Tỉ trọng nữ giảng viên (%)
1999
22606
7697
34
2000
24362
8635
35
2001
25546
9210
36
2002
27393
10105
37
2003
28434
10680
38
2004
33969
12943
38
2005
34294
13575
39
2006
38137
16214
42
2007
38217
16459
43
2008
41007
18185
44
2009
45961
20849
45
2010
50951
23306
46

Nhưng tỉ lệ nữ giảng viên đại học có khác với tỉ lệ giảng viên cao đẳng? Số liệu Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy một bức tranh khác: tỉ lệ nữ giảng viên cao đẳng còn cao hơn tỉ lệ ở bậc đại học. Niên học 2010-2011 có 23622 giảng viên cao đẳng, và trong số này có 12051 nữ giảng viên, chiếm hơn phân nửa (51%) tổng số giảng viên cao đẳng. Khác với bậc đại học, tỉ lệ giảng viên nữ từ năm 1999 đến nay chỉ dao động trong khoảng 49-51%.

Dựa vào xu hướng tỉ lệ giảng viên cao đẳng và đại học, có thể rút ra hai nhận xét chính. Thứ nhất, càng lên cao thì tỉ lệ giảng viên nữ càng thấp. Thứ hai, nhưng xu hướng đáng mừng là số nữ giảng viên đại học tiếp tục tăng theo thời gian. Điều đáng chú ý là tỉ lệ nữ giảng viên đại học Việt Nam cao hơn so với Thuỵ Điển (46% và 36%). Những con số này có vẻ phù hợp với giả thuyết rằng ở Việt Nam nữ  không bị thiệt thòi như đồng nghiệp phương Tây.

Chú thích:

Danell R, Hjern M. Career prospects for female university researchers have not improved. Scientometrics 12/9/2012

Tôi cũng tò mò tìm hiểu xem tỉ lệ nữ sinh viên cao đẳng và đại học ra sao thì thu thập được số liệu trong Bảng 3 dưới đây. Bảng này cho thấy tỉ lệ nữ sinh viên cao đẳng nói chung cao hơn tỉ lệ nữ sinh viên đại học. Chẳng hạn như năm học 2010-2011 có trên 726 ngàn sinh viên cao đẳng, và trong số này có 53% là nữ. Trong cùng thời gian, số sinh viên đại học là 1.4 triệu, với 48% là nữ sinh viên. Tôi chỉ ngạc nhiên (hay nghi ngờ) con số tỉ lệ nữ sinh viên đại học năm 2006 quá cao (55%) so với những năm trước và sau đó. Số liệu của Việt Nam nhiều lần làm tôi thấy thót ruột!

Bảng 3: Tỉ lệ nữ trong số sinh viên đại học và cao đẳng 1999-2010
Năm
Sinh viên cao đẳng
Sinh viên đại học
Tổng số
% Nữ
Tổng số
% Nữ
1999
173,912
49
719,842
42
2000
186,723
49
731,505
42
2001
210,863
49
763,256
43
2002
215,544
49
805,123
43
2003
232,263
51
898,767
45
2004
273,463
51
1,046,291
47
2005
299,294
53
1,087,813
47
2006
367,054
54
1,173,147
55
2007
422,937
51
1,180,547
48
2008
476,721
51
1,242,778
48
2009
576,878
53
1,358,861
49
2010
726,219
53
1,435,887
48
Read more ...

Sự thật được nói và nói về sự thật

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Liên quan đến vấn đề truyền thông và khoa học, tôi lại có hân hạnh tiếp chuyện với phóng viên của Sinh viên Việt Nam (SVVN.vn) qua phóng viên Lê Ngọc Sơn trong chương trình “Khách mời”.  Bài này cũng đã khá lâu, và đa đăng trên báo giấy với cái tựa đề rất hay “Sự thật được nói và nói về sự thật”.  Giới báo chí phải nói là rất tốt trong sáng tạo chữ nghĩa.



Nghĩ nhanh, nghĩ chậm


SVVN: Khi một nhà khoa học đưa ra một thông tin mang tính khẳng định/ hay phủ định  sẽ phải cân nhắc những yếu tố nào, thưa GS? Đâu là điều cấm kỵ đối với một nhà khoa học khi đưa ra một thông tin?

NVT:  Thật ra, trong khoa học ít khi nào có những thông tin mang tính khẳng định.  Những thông tin liên quan đến dự báo, tiên lượng, chẩn đoán, v.v. lại càng mang tính bất định.  Do đó, khi đưa ra một thông tin về dự báo, ví dụ như dự báo động đất, thì nhà khoa học chỉ có thể nói đến xác suất động đất trong tương lai là bao nhiêu, chứ không ai dám nói “sẽ có” hay “sẽ không có” động đất.  Cái mâu thuẫn giữa kì vọng của công chúng (câu trả lời dứt khoát) và nhà khoa học (câu trả lời mang tính bất định) là ở điểm này.

Bởi vì thông tin mang tính bất định, nên việc đưa thông tin cần phải cân nhắc rất cẩn thận.  Chả thế mà trong khoa học có bộ môn risk communication – truyền thông về rủi ro.  Yếu tố cân nhắc là lợi ích và tác hại.  Lợi ích phải lớn hơn tác hại.  Nếu thông tin đưa ra sẽ giúp cho người dân tránh được sự mất mát về sinh mạng và tài sản, dù gây ra bất tiện, thì đó là điều nên làm. 

Ngoài ra, còn có một nguyên lí khi đưa tin khoa học là nguyên lí phòng ngừa. Nguyên lí này có thể tóm lược như sau: khi có những đe doạ hay rủi ro lớn đến môi trường, chúng ta cần phải có những kế sách, chiến lược, hay biện pháp để phòng ngừa tai hoạ, cho dù kiến thức khoa học vẫn còn trong tình trạng bất định. Nói cách khác, theo nguyên lí này, chúng ta cần phải hành động trong tình huống nguy hiểm cho dù chứng cứ khoa học vẫn chưa đầy đủ.


SVV: Việc phản ứng trước các nguy cơ là điều khá dễ hiểu để giải thích cho việc người dân sống chung quanh ku vực Sông Tranh chạy khỏi nhà khi cảm nhận động đất?

NVT:  Cơ chế nghĩ nhanh, nghĩ chậm (fast thinking, slow thinking) là một phát kiến của Giáo sư Daniel Kahneman và Amos Tversky (hai nhà tâm lí học người Do Thái).  Kahneman được trao giải Nobel kinh tế học năm 2002, còn Tversky thì qua đời trước đó vài năm.  Trong một loạt thí nghiệm tâm lí mang tính tiền phong, Kahneman và Tversky chứng minh rằng con người chúng ta suy nghĩ theo hai cơ chế: nghĩ nhanh và nghĩ chậm.  Phát kiến này quan trọng vì nó bác bỏ niềm tin từ bao lâu nay rằng con người suy nghĩ một cách logic và rất “lí trí”, quyết định dựa vào lí lẽ cơ sở khoa học và có tính toán cẩn thận, nhưng Kahneman chứng minh rằng con người chúng ta đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là nghĩ chậm.

Suy nghĩ nhanh, theo cách nói ví von của người Việt chúng ta, là trông mặt mà bắt hình dong.  Tức là một cơ chế suy nghĩ dựa vào những tín hiệu sơ khởi, thay vì tính toán cẩn thận và suy đoán dựa vào logic.  Khi lái xe gắn máy trên đường đến một ngã tư, chúng ta có khi chỉ cần nhìn vào ánh mắt người lái xe đối diện để quyết định băng qua đường hay không.  Trước thông tin rằng tỉ lệ mắc bệnh ung thư cao hơn ở vùng nông thôn hơn vùng thành thị, chúng ta có thể nghĩ ngay rằng vì dịch vụ ý tế ở vùng nông thôn còn kém hơn vùng thành thị.  Nhưng nếu có thông tin cho rằng ung thư vùng nông thôn thấp hơn vùng thành thị, có lẽ chúng ta nghĩ rằng cư dân nông thôn không sống trong môi trường ô nhiễm như cư dân thành thị, nên cư dân nông thôn có nguy cơ ung thư thấp hơn thành thị. Việc người dân di tản khỏi khu vực Sông Tranh II có lẽ là một quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh.  Chính cơ chế suy nghĩ nhanh này giúp cho con người tồn tại qua hàng triệu năm tiến hoá, dù cơ chế này có thể dẫn đến sai lầm. 

Sự cẩn trọng

SVV: Giới học thuật có ngầm định quy ước d9a5o đức nào trong việc công bố thông tin khoa học, thưa ông? 

NVT: Trong khoa học, có Qui ước Ingelfinger mà các nhà khoa học phải tuân thủ gần như tuyệt đối.  Theo Qui ước Ingelfinger, nhà khoa học chỉ cung cấp thông tin cho công chúng khi nào thông tin đó đã được công bố trên một tập san khoa học chuyên ngành, đã qua bình duyệt của các đồng nghiệp trong chuyên ngành.  Nếu nhà khoa học tuyên bố rằng tế bào gốc có thể điều trị thành công một bệnh nào đó, mà chưa bao giờ công bố thông tin đó trên một tập san chuyên ngành, thì đó là một vi phạm Qui ước Ingelfinger. 

Trước đây, khi một nhóm nhà khoa học của Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố rằng thịt chó gây ra bệnh tả, chúng tôi có chất vấn họ vì họ chưa bao giờ công bố một công trình nghiên cứu nào về mắm tôm và thịt chó với bệnh tả trên tập san chuyên ngành (và do đó họ làm không đúng theo Qui ước Ingelfinger).  Tuy nhiên, Qui ước Ingelfinger không áp dụng cho những thông tin dự báo, như về khả năng động đất ở Song Tranh II.

Cũng vì không tuân theo Qui ước Ingelfinger mà nhiều tác hại đã xảy ra ở Việt Nam. Cách đây khoảng 6 năm, người ta dùng điện não đồ để “chẩn đoán” nghiện ma túy, và dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng.  Một đại uý trong quân độ tự tử vì anh được chẩn đoán là dùng ma tuý!  Theo tôi biết thì phương pháp này chưa bao giờ được công bố trên một tập san chuyên ngành có bình duyệt.  Tuy nhiên, theo một giáo sư thì kĩ thuật xét nghiệm điện não đồ đã được nghiên cứu và kết quả đã “được duyệt từ cấp Bộ đến cấp nhà nước. […] Đề tài này được đánh giá xuất sắc, phổ cập trên toàn quốc”. Có thể nghiên cứu này xuất sắc qua thẩm định của các quan chức y tế, nhưng vì kết quả của công trình nghiên cứu này chưa được công bố trên một tập san y học có bình duyệt, nên rất mà khó biết giá trị khoa học của công trình nghiên cứu ra sao, và khi áp dụng cho công chúng thì dẫn đến hệ quả nghiêm trọng.  

SVVN: Có trường hợp mà người dân/ công chúng cần biết sự thật, nhưng nhà khoa học vì một lý do nào đó không thể nói ra. Nếu rơi vào tình huống đó thì ông sẽ làm gì?

NVT:  Tôi nghĩ thông tin khoa học thì phải minh bạch.  Tôi chưa nghĩ đến một tình huống nào mà nhà khoa học giấu thông tin, không chịu cung cấp thông tin cho công chúng. 

Tuy nhiên, cách thức cung cấp thông tin thì còn tuỳ tình huống. Tôi có thể lấy một ví dụ về thuốc để minh hoạ.  Một loại thuốc điều trị loãng xương rất hiệu quả, nhưng bằng chứng gần đây cho thấy thuốc có thể (chỉ “có thể” thôi) tăng nguy cơ rung nhĩ và hoại tử xương hàm, dù nguy cơ này rất thấp.  Trong tình huống đó, bác sĩ vẫn phải báo cho bệnh nhân biết rằng thuốc đem lại lợi ích lớn về giảm nguy cơ gãy xương, nhưng vẫn có nguy cơ thấp về rung nhĩ và hoại tử xương hàm. 

SVVN: Thưa ông, lịch sử truyền thông về các vấn đề khoa học có từ bao giờ? Và ông có suy nghĩ gì khi quy chiếu vấn đề này với hiện thực Việt Nam?

NVT:  Tôi không am hiểu lịch sử truyền thông khoa học, nhưng đọc sách thấy người ta nói lịch sử của truyền thông khoa học có lẽ bắt đầu từ năm 1904, khi tờ New York Times có mục khoa học qua cây bút Carr van Anda. Mấy năm sau thì các báo có mục thông tin khoa học và y tế. Đến nay thì như chúng ta thấy, hầu như báo nào và đài phát thanh nào cũng có mục tin khoa học và y tế.  Phải nói rằng nhờ báo chí và truyền thông khoa học mà công chúng càng ngày càng biết đến khoa học nhiều hơn. Ngày nay, có khi chính nhà khoa học nghe đến những khám phá quan trọng qua báo chí hơn là qua tập san khoa học!

Ở nước ta, sự phát triển của truyền thông khoa học còn hạn chế, vì theo tôi biết, các báo đài vẫn thiếu phóng viên chuyên về mảng khoa học và y tế.  Lại có trường hợp phóng viên phụ trách mảng này nhưng chưa được đào tạo một cách bài bản.  Do đó, phần lớn phóng viên chỉ viết lại những thông cáo báo chí của các trung tâm khoa học.  Có người thậm chí xem phóng viên chỉ là cái loa cho giới khoa học tuyên truyền và tìm … tài trợ cho nghiên cứu. Ở vài nước như Trung Quốc, có phóng viên còn nhận tiền của giới khoa học để “đánh bóng” tên tuổi cho nhà khoa học! 

SVVN: Và khi phóng viên không có kỹ năng đưa tin về thông tin khoa học, sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường? 

NVT:  Đúng vậy.  Vì phóng viên chưa am hiểu hoạt động khoa học nên dẫn đến nhiều sự cố đáng tiếc, như sự cố bưởi và ung thư vú.  Năm 2007, một bản tin về bưởi và ung thư vú làm giảm giá bưởi từ 8.000-10.000 đồng/kílô xuống còn 1.000 đồng/kílô, và gây thiệt hại không ít cho nhiều nông dân sản xuất và doanh nghiệp phân phối bưởi, nhưng nghiên cứu này không đáng tin cậy. 

Tôi muốn nhắc đến một ý mà tôi đã nói trước đây rằng giới truyền thông và khoa học có cùng một mục tiêu: đi tìm sự thật.  Nhưng thẩm định thế nào là sự thật không phải là một việc làm đơn giản.  Khoa học dựa vào sự thật hay dữ liệu thật.  Những sự thật phải được quan sát hay thu thập và đo lường bằng những phương pháp chuẩn.  Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là không chỉ sự thật, mà là dữ liệu có liên quan đến vấn đề.  Do đó, đối với báo chí, nếu chỉ đơn thuần cung cấp những dữ liệu, ý kiến, hay thậm chí con số từ một nghiên cứu chưa thể xem là bằng chứng khoa học được.  Phóng viên cần phải vượt ra ngoài những dữ liệu giới khoa học cung cấp, bằng cách phân tích và đối chiếu với bối cảnh cộng đồng để giúp cho người đọc (công chúng) hiểu vấn đề một cách thấu đáo.  Trong chiều hướng đó, hi vọng rằng những tiêu chuẩn trên đây sẽ giúp cho giới phóng viên nước ta, nhất là giới phóng viên khoa học, tiếp cận và thực hành truyền thông theo nguyên lí của truyền thông thực chứng.

SVVN: Xin cám ơn ông!
  
Read more ...

Phiên toà về trách nhiệm khoa học

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012
http://cmbe-cpms.anu.edu.au/files/styles/anu_narrow_200_200/public/ScienceCommunication.JPGHôm thứ Hai vừa qua (22/10), Chánh án Marco Billi của toà án tối cao Ý tuyên án 7 nhà địa chấn học Ý tội ngộ sát. Mỗi nhà khoa học lãnh bản án 7 năm tù giam. Bản án gửi một làn sóng sốc trong cộng đồng khoa học quốc tế. Trước sự đe doạ động đất ở thuỷ điện Sông Tranh II, phiên toà cũng gửi một tín hiệu cảnh báo về trách nhiệm xã hội của giới khoa học.

Để cảm nhận vấn đề hãy tưởng tượng một tình huống như sau. Bạn và gia đình sống trong một vùng có “tiền sử” động đất, mấy tuần nay, có nhiều cơn địa chấn và có người không phải là nhà khoa học dự báo rằng đó là tín hiệu của động đất. Bạn và gia đình thu xếp hành lí để “di tản” đến một vùng an toàn hơn. Nhưng một nhóm nhà khoa học địa vật lí với bằng cấp tiến sĩ dự báo rằng sẽ không có động đất, và khuyên bạn không cần di tản. Bạn nghe lời họ, ở lại, nhưng động đất xảy ra, và người trong gia đình bạn cùng với hàng trăm người khác bị tử vong. Bạn lâm cảnh “màn trời chiếu đất”, mất tất cả. Bạn chắc chắn rất giận các nhà khoa học.
Tình huống trên không phải là tưởng tượng mà là thực tế đã xảy ra ở thành phố L’Aquila (Ý). L’Aquila là thành phố từng bị động đất, và chu kì gần như mỗi 300 năm. Từ tháng 10/2008 đến 1/2009, thành phố ghi nhận hơn 300 cơn địa chấn, làm dân chúng hoang mang. Người dân tìm cố vấn của các nhà khoa học địa vật lí chuyên về động đất, và trong một cuộc họp ngắn, các nhà khoa học ghi nhận rằng nguy cơ động đất là có tăng nhưng không cao, họ khuyên người dân không cần phải di tản. Nhưng ngày 6/4/2009, một trận động đất 6.3 độ richter xảy ra, làm thành phố tan hoang, 309 cư dân thành phố chết vì động đất, và hơn 1500 người bị thương tích. Hàng chục ngàn ngôi nhà của dân và nhiều toà nhà lịch sử bị tiêu huỷ. Hàng chục ngàn người sống trong cảnh màn trời chiếu đất.
Tháng 7/2010, công tố viên Fabio Picuti đưa 7 nhà khoa học thuộc Ủy ban Quốc gia về Tiên đoán và Phòng chống những Nguy cơ lớn ra toà, vì ông cho rằng họ cẩu thả, không cảnh báo cho công chúng biết về nguy cơ động đất. (Có thể xem thêm chi tiết trong bài trước đây). Phiên toà bắt đầu từ tháng 9/2011, nhưng mãi đến hôm qua mới có phán quyết sau cùng. Chánh án tuyên bố 6 nhà khoa học và một quan chức tội “ngộ sát”, và phạt 7 năm tù giam. Chánh còn ra lệnh không cho 7 nhà khoa học giữ bất cứ một chức vụ nào trong hệ thống công quyền suốt đời, và phải bồi thường cho nguyên đơn 7.8 triệu Euro.
http://www.csmonitor.com/var/ezflow_site/storage/images/media/content/2012/1025-backchannel-blog-italy-quake-trial/14132031-1-eng-US/1025-backchannel-blog-Italy-Quake-Trial_full_600.jpg

Thân nhân vui mừng trước bản án (ảnh: CSMonitor)
Bản án làm ngạc nhiên nhiều người. Ngay cả công tố viên cũng ngạc nhiên, vì công tố viên đề nghị bản án 4 năm tù giam. Phản ứng trước bản án, các nguyên đơn cho rằng công lí đã được thực thi. Nhưng giới khoa học thì rất sốc và có phần thất vọng. Nhà địa chấn học Susan Hough (Mĩ) cho rằng đây là một ngày buồn cho khoa học. Còn Tiến sĩ Enzo Boschi, cu vin trưởng Vin địa vật lí và núi lửa học, người cũng b kết án, thì ng ngàng. Ông nói: Tôi tht vng, tuyt vng. Tôi nghĩ tôi s trng án. Tôi vn không hiu tôi b ti gì”. Theo phán xét của toà, họ phạm tội cung cấp thông tin “không chính xác, không đầy đủ, và mâu thuẫn về nguy cơ động đất”.
Phiên toà về đánh giá rủi ro
Phán quyết của toà án cũng làm cho giới khoa học thế giới quan tâm, nhưng họ hiểu lầm bản chất của vấn đề. Có người ví von rằng đây là phiên toà mang tính cách “Dị giáo” (mà Giáo hội Công giáo La Mã đã bỏ tù Galileo Gallilei), thể hiện sự dốt nát của … quan toà Ý. Dốt là vì quan toà không biết rằng khoa học là bất định, và không ai có thể tiên đoán chính xác ngày tháng năm động đất. Các nhà địa chấn học có thể tiên đoán khá chính xác rằng một vùng nào đó sẽ có động đất trong vòng 100 năm, nhưng không ai có thể hay dám tiên đoán rằng động đất sẽ xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày thứ Ba sắp tới. Không ai có thể tiên đoán như thế. Do đó, quyết định phạt tù các nhà khoa học khi họ tiên đoán sai tự nó đã phạm một sai lầm nghiêm trọng.
Nhưng công tố viên Picuti nhấn mạnh rằng phiên toà không phải chống lại khoa học, cũng không phải vì các nhà khoa học dự báo sai. Ông hoàn toàn hiểu rằng không một nhà khoa học nào có thể tiên đoán động đất chính xác đến từng ngày giờ hay địa điểm cụ thể. Tiến sĩ Vincenzo Vittorini, người có vợ và con chết trong trận động đất, cho rằng không ai muốn khởi tố khoa học ra toà, vì chúng ta đều biết rằng khoa học không thể tiên đoán động đất chính xác. Những gì chúng ta muốn biết là thông tin về rủi ro phải rõ ràng để đi đến quyết định và lựa chọn phương án đối phó. Nhưng tiếc thay, các nhà khoa học đã không cung cấp thông tin đầy đủ và rõ ràng cho người dân, và họ phải trả giá cho sự cẩu thả đó.
Công tố viên Picuti tóm lược vấn đề một cách tinh tế và rất … khoa học. Ông nói các luật sư biện hộ (và cả các nhà khoa học ngoài cuộc trên thế giới đang lớn tiếng phê bình phiên toà) không phân biệt được thiên tairủi ro thiên tai xảy ra. Thiên tai chỉ có hai giá trị: có hay không có. Rủi ro là xác suất có giá trị từ 0 đến 1. Mặc dù không ai có thể tiên đoán thiên tai, nhưng các nhà khoa học có thể tiên đoán rủi ro thiên tai sẽ xảy ra. Điều này thì người viết bài này hoàn toàn đồng ý với công tố viên. Đúng là nhà khoa học không thể cho ra câu trả lời có hay không có động đất, nhưng với thông tin trong quá khứ và kinh nghiệm, nhà khoa học có thể đánh giá được xác suất động đất cao hay thấp. Do đó, những ai mỉa mai hay chỉ trích phán quyết của toà án có lẽ nên xem lại bản chất của vấn đề.
Phiên toà về trách nhiệm khoa học
Phiên toà cũng có thể xem là phiên toà về trách nhiệm xã hội của giới khoa học. Các nhà khoa hc là nhng người có đặc quyn và đặc li, nhưng cũng là nhng thành viên trong xã hi. Nhng thông tin ca h được đánh giá cao, và h biết rõ điu này. Do đó, mt trong nhng trách nhim ca nhà khoa hc là h phi chia s thông tin vi công chúng. Người dân s dng nhng thông tin này như là nhng ch dn để quyết định.
Do đó, theo lí giải của công tố viên, vấn đề là trách nhiệm của nhà khoa học, của công chức. Là quan chức của nhà nước, họ có nhiệm vụ trước luật pháp; là nhà khoa học họ chịu trách về đánh giá và phân tích nguy cơ tiềm ẩn hay hiện có cho người dân. Trước đây, giới khoa học ít khi nào chịu trách nhiệm trước công chúng về những thông tin họ cung cấp. Những dự báo sai, những tiên đoán không xảy ra, nhà khoa học chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng phiên toà này có lẽ sẽ thay đổi tình trạng đó.
Trong trường hợp này, các nhà khoa học đã thất bại trong trách nhiệm cung cấp thông tin. Thật ra, họ chẳng cung cấp thông tin nào cả. Theo tài liệu trong toà, các nhà khoa học họp trong nhiều giờ, sau đó bỏ đi mà không nói gì cả. Sau buổi họp, một phóng viên hỏi về nguy cơ thì một quan chức nói rằng “Cộng đồng khoa học nói rằng không có hiểm nguy, vì hiện năng lượng đang phóng ra. Tình hình có vẻ ổn”. Vị quan chức này còn nói đùa rằng người dân có thể về nhà và nâng li rượu! Một tuần sau, 309 người chết. Vị quan chức này là một trong 7 người bị tuyên án ngộ sát.
Những sự kiện xảy ra cũng là một kinh nghiệm quí báu cho Việt Nam. Chúng ta biết rằng động đất càng ngày càng lớn chung quanh khu thuỷ điện Sông Tranh 2. Sau một phát biểu đầy tai tiếng của một nhà khoa học, tình hình có vẻ biến chuyển theo chiều hướng xấu hơn. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là không một nhà khoa học hay tổ chức khoa học nào cung cấp thông tin về rủi ro động đất ra sao!   Phiên toà ở Ý có lẽ là một lời nhắc nhở về trách nhiệm xã hội của giới khoa học: đó là cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác về rủi ro của thiên tai. Phiên toà còn gửi một thông điệp cho các nhà khoa học phải học cách truyền đạt thông tin về rủi ro một cách hiệu quả và minh bạch.
Bài đã đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị tuần qua.
Read more ...

Thêm một bộ trưởng Đức đạo văn?

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012
http://www.mpq.mpg.de/cms/mpq/en/departments/quanten/homepage_cms/projects/qip/pics/phdhat.jpgMột bản tin ngắn trên tập san Science tuần qua cho biết bà Annette Schavan, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đức đang bị điều tra vì nghi vấn đạo văn trong luận án tiến sĩ của bà hơn 30 năm trước. Thế là thêm một bộ trưởng Đức có nguy cơ bị mất chức vì đạo văn. Sự việc có ý nghĩa đến chính sách đào tạo tiến sĩ và hình thức thích hợp cho một luận án tiến sĩ.


Mấy năm gần đây, việc truy tìm luận án của các chính khách Đức và Âu châu trở thành một loại thể thao học thuật của giới báo chí. Theo báo chí, đã có hơn 6 chính trị gia Đức phải rời chức vụ vì đạo văn. Còn nhớ trước đây cựu bộ trưởng Bộ Quốc phòng Karl-Theodor zu Guttenberg cũng phạm tội đạo văn, và từ chức vì tội này. Một số chính khách khác cũng chịu sự săm soi của các “activist” (qua trang web VroniPlag) về nạn đạo văn và đã kết cục xấu. Chẳng hạn như Jorgo Chatzimarkakis và Silvana Koch-Mehrin, cả hai là thành viên của Hạ nghị viện Châu Âu và là đảng viên của Đảng tự do, cũng bị cáo buộc đạo văn. Riêng Koch-Mehrin phải từ chức phó chủ tịch Hạ nghị viện Đức sau khi Đại học Heidelberg rút lại bằng tiến sĩ vì luận án có quá nhiều đạo văn.

Nay thì đến trường hợp của bà Annette Schavan. Bà là đương kim bộ trưởng Bộ Giáo dục Đức, chức vụ bà giữ từ năm 2005 cho đến nay. Bà tốt nghiệp tiến sĩ năm 1980 với luận án “Person and conscience – studies on conditions, need and requirements of today’s conscience” từ Đại học Dusseldorf. Chuyên ngành của bà là khoa học giáo dục, triết học và thần học. Bà được xem là một bộ trưởng có tài, và được Đại học Free trao tặng chức danh giáo sư danh dự. Luận án của bà được đồng nghiệp đánh giá là một “formidable accomplishment.” 

Tuy nhiên, vào tháng 5/2012, có người qua một trang web cáo buộc rằng luận án tiến sĩ của bà có dấu hiệu đạo văn. Website vừa đề cập liệt kê 50 ví dụ trong luận án 351 trang mà tác giả cho là không được trích dẫn hay ghi nhận một cách thích hợp. Đại học Dusseldorf lập tức mở cuộc điều tra, nhưng không nói bao giờ sẽ công bố kết quả. Bà Bộ trưởng thì tuyên bố dứt khoát rằng bà không đạo văn, và sẽ bảo vệ quan điểm đó đến cùng. Tuy nhiên, Science tiết lộ rằng một nguồn tin riêng cho biết có lẽ đại học sẽ có quyết định bất lợi cho bà bộ trưởng.

Tuy nhiên, theo Science, trường hợp của bà Annette Schavan có lẽ không nghiêm trọng như của zu Guttenberg. Nhưng sự việc vẫn có thể gây tổn hại đến sự nghiệp của bà. Tạp chí Der Spiegel cho biết trường đại học đã thẩm định xong luận án và có đề nghị rút lại văn bằng tiến sĩ của bà, nhưng trường chưa quyết định sẽ tuyên bố vào lúc nào. 

Qua những vụ việc này, có lẽ bài học là luận án tiến sĩ nên công bố quốc tế để tránh tình trạng cáo buộc đạo văn. Một khi nội dung nghiên cứu của luận án được công bố thì đó cũng là hình thức acid test để cộng đồng khoa học đánh giá. Còn không công bố thì rất khó biết luận án có nội dung gì mới hay xứng đáng với văn bằng được trao. Nhớ ngày xưa khi còn mài ghế nhà trường làm nghiên cứu, tôi rất bận tâm đến luận án, nhưng thầy hướng dẫn tôi không bao giờ nghĩ đến luận án. Ông nói (và tôi dịch nôm na): lo công bố kết quả đi, luận án mày viết ra để ai đọc hả? Nó ở trên cái giá sách đó kìa, mà chính mày cũng chẳng thèm đọc. Cứ mỗi lần có nghiên cứu sinh mới vào thì ông lại nói câu này. Không cần lâu tôi đã nhận ra ngay là công bố bài báo khoa học quan trọng hơn luận án. 

Hiện nay, các trường đại học Úc có 3 xu hướng chính về luận án tiến sĩ. Xu hướng thứ nhất mang tính cổ điển trong giới khoa học xã hội, mà theo đó nghiên cứu sinh viết một monograph vài trăm trang mà không công bố quốc tế.  Xu hướng thứ hai là nửa monograph, nửa papers. Theo xu hướng này, nghiên cứu sinh công bố vài bài báo khoa học và dùng đó như là những chương trong phần kết quả, cộng với những nghiên cứu chưa công bố làm thành một luận án. Xu hướng thứ ba là theo phong cách Bắc Âu, tức là nghiên cứu sinh tập hợp 4 bài (ít nhất là 3 bài) thành một luận án và đệ trình để bảo vệ. Xu hướng 2 và 3 là phổ biến nhất, đặc biệt là trong các ngành khoa học tự nhiên và y sinh học; còn xu hướng 1 thì chỉ tồn tại phần lớn trong các ngành “soft science”. Phần lớn những chính khách làm nghiên cứu xã hội học, và luận án của họ ít khi nào được công bố, nên dẫn đến tình trạng như hiện nay. 

Read more ...

Đại học Nga so với đại học phương Tây như thế nào?

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012
http://www.linkturs.com/spaw2/uploads/images/vishaja_skola_ekonomiki_logo.gifScientometrics mới công bố một phân tích rất thú vị về so sánh năng suất khoa học giữ hai đại học của Nga và một số đại học phương Tây. Bài báo có vài thông tin quí, nên tôi thu thập và trích dẫn ra đây để chúng ta cùng tham khảo. Nói chung, kết quả so sánh cho thấy 2 đại học Nga (HSE và MSU) không khá hơn so với những đại học “làng nhàng” của phương Tây.
 

Trong bài này, tác giả so sánh các chỉ số về đầu ra của nghiên cứu khoa học giữa 6 đại học. Đó là các trường Higher School of Economics (HSE), Lomonosov Moscow State University (MSU), University of Mississippi, University of Newfoundland, Université de Nantes, và Leibniz Universitat Hannover. Tác giả thu thập dữ liệu về số giảng viên / giáo sư, thư viện, và ấn phẩm khoa học công bố trong năm 2009 của từng đại học.

Ở Nga mới xuất hiện một đại học có tên là Higher School of Economics (HSE). Sau khi xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ và Liên bang Xô Viết bị tan rã, một nhóm giáo sư và học giả (tuổi trung niên) đứng ra soạn đề cương và lập ra trường vào năm 1992. Mục tiêu của trường là rập khuôn các trường kinh tế ở phương Tây. Có lẽ cách đặt tên chịu ảnh hưởng của London School of Economics.

Đại học Quốc gia Moscow là đại học lâu đời nhất, và chắc là uy tín nhất của Nga. Được thành lập từ 1755 như là một “đại học liên bang” (hiểu theo nghĩa ngân sách do chính phủ liên bang quyết định). MSU xem họ có sứ mệnh gìn giữ và đặt chuẩn mực học thuật cho các đại học Nga.

Đại học Mississippi là đại học tầm trung bình, đứng hạng 143 (trong số 262) của Mĩ trong bảng xếp hạng đại học của Mĩ US News and World Report. Đại học Newfoundland cũng có vị trí tương tự như Mississippi.

Câu hỏi mà nhà nghiên cứu đặt ra là sau 20 năm cải cách, 2 đại học hàng đầu của Nga có thành tựu như thế nào so với các đại học tầm trung của phương Tây. Tác giả không so sánh với các đại học hàng đầu của phương Tây, vì nghĩ rằng hai đại học của Nga chưa ở tầm vóc hàng đầu thế giới. Kết quả so sánh có thể tóm lược trong bảng dưới đây:

Bảng 1: So sánh một số chỉ tiêu đầu vào và đầu ra về nghiên cứu khoa học
Chỉ tiêu
HSE
MSU
UMiss
MUN
Nantes
Hannover
Nước
Nga
Nga

Canada
Pháp
Đức
Số giảng viên
1491
5923
729
1047
1569
1120
Thu nhập (revenues, triệu USD)
199.4
~1000
1005
337.5
378.4
398.5
Thư viện: số ấn phẩm
~74,000
~10 triệu
1.9 triệu
~1.9 triệu
500,000
8.2 triệu
Số công trình công bố ISI năm 2009
45
3587
1382
826
860
1105
Số công trình trên mỗi giảng viên
0.03
0.61
1.90
0.79
0.55
0.97
Số công trình về kinh tế
5
3
46
11
22
36
Chú thích: HSE = Higher School of Economics; MSU = Lomonosov Moscow State University; UMiss = University of Mississippi; MUN = University of Newfoundland; Nantes = Université de Nantes; Hannover = Leibniz Universitat Hannover. Nguồn: (1).

Tuy mới thành lập, trường HSE có đến 1491 giảng viên / giáo sư (sẽ viết tắt là giảng viên). Mỗi năm thu nhập gần 200 triệu USD, nhưng mỗi năm chỉ công bố được 45 bài báo khoa học. Tính trung bình, số bài báo khoa học trên mỗi giảng viên chỉ 0.03.

Đại học MSU có năng suất cao hơn. Với 5923 giảng viên và thu nhập 1 tỉ USD, trường này công bố được 3587 bài báo khoa học năm 2009. Năng suất khoa học trung bình cho mỗi giảng viên là 0.61, cao hơn HSE rất nhiều.

Nhưng năng suất khoa học của MSU vẫn còn rất thấp so với Đại học Mississippi. Đại học Mississippi chỉ có 729 giảng viên, nhưng ngân sách 1 tỉ USD, và công bố được 1382 bài báo khoa học. Tính trung bình mỗi giảng viên công bố gần 2 bài báo khoa học mỗi năm, và năng suất này cao nhất trong số 6 trường cùng đẳng cấp được so sánh. Năng suất khoa học của Mississippi cao gần gấp 2 lần so với ĐH Hannover, và 4 lần so với ĐH Nante của Pháp.

Thật ra, qua số liệu này và so sánh với các trường trong vùng Đông Nam Á chúng ta dễ dàng thấy năng suất khoa học của trường MSU của Nga chỉ tương đương với ĐH Mahidol, Chulalongkorn và Malaya. Nhưng MSU còn kém hơn khá xa khi so với ĐHQG Singapore (mỗi năm công bố trên 5000 bài, cao hơn MSU khoảng 40%). Tuy nhiên, chưa thể so sánh chất lượng nghiên cứu vì bài báo không đề cập đến. Nhưng bài báo có đề cập đến tình trạng tự trích dẫn (self-citation) rất cao trong giới khoa học Nga, dù công trình của họ ít được đồng nghiệp ngoại quốc trích dẫn.

Các đại học Nga (như MSU và HSE) đã dùng chuẩn mực của phương Tây trong việc đánh giá nghiên cứu khoa học sau khi Liên Xô sụp đổ. Bài báo này muốn hỏi rằng sau một thời gian dài “làm theo Tây” như thế, họ có cải tiến gì hay không? Tác giả kết luận rằng không thành công (“Efforts to adapt Western standards of academic management as exemplified by the HSE have not been successful so far.”)

Tham khảo: 

(1) Oleinik A. Publication patterns in Russia and the West compared. Scientometric 2012; 93:533-51.
Read more ...