Pages

Uống bia chịu ảnh hưởng của hình thể li bia

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012
http://photos.the-scientist.com/legacyArticleImages/2012/08/beer-glasses.jpgMột trong những tập san khoa học tôi hay đọc trong vài năm gần đây là PLoS ONE vì có nhiều bài rất thú vị và bất ngờ. Tuần vừa qua, PLoS ONE công bố một nghiên cứu về mối liên quan giữa tốc độ uống bia và hình thể li bia. Một cách ngắn gọn: người dùng li bia hình thể cong uống bia nhanh hơn (và nhiều hơn) người dùng li bia hình thẳng. Nhưng phương pháp thí nghiệm của họ mới là đáng học.


Tại sao có nghiên cứu này? Lí do là vì uống bia thái quá có hại cho sức khoẻ. Có lẽ điều này thì không ai phản bác. Nhưng cũng cần mở ngoặc ở đây rằng uống bia với liều lượng vừa đủ thì có thể có lợi cho sức khoẻ. Tuy không có định nghĩa chuẩn, nhưng “vừa đủ” ở đây có nghĩa [hay thường được hiểu] là 1 lon bia hay 1 li bia mỗi ngày. Trong xã hội tự do, không ai có quyền cấm người ta uống bia, càng không có quyền đo lường xem họ uống bao nhiêu. Do đó, vấn đề đặt ra là có biện pháp can thiệp gián tiếp nào để hạn chế những người có thói quen uống bia thái quá.

Để tìm một biện pháp hữu hiệu, cần phải biết yếu tố nào ảnh hưởng đến thói quen uống bia. Đã từ lâu, giới xã hội học biết rằng lượng bia tiêu thụ có liên quan đến các yếu tố kinh tế và môi trường. Trong thời kì giá bia tăng thì lượng tiêu thụ bia giảm. Ở Anh người ta ước tính rằng nếu giá bia tăng 10% thì lượng bia tiêu thụ giảm khoảng 5%. Ngoài ra, trong môi trường nhậu nhẹt, người ta uống bia nhiều hơn trong môi trường trịnh trọng hơn như đám cưới. Các nhà nghiên cứu đặt giả thuyết rằng hình thể li bia cũng có thể ảnh hưởng đến liều lượng uống bia.

Để kiểm định giả thuyết này, họ tiến hành một thí nghiệm xã hội theo mô hình giai thừa (factorial design). Họ tuyển 160 tình nguyện viên, và chia thành 8 nhóm, theo đó, họ được yêu cầu uống 6 hoặc 12 oz lager hoặc không có lager, bằng 2 loại li: loại li có eo, và li thẳng (suông). Dĩ nhiên, hai loại li này có cùng thể tích. Mỗi nhóm có 20 đối tượng. Tôi hình dung ra thí nghiệm chia nhóm như sau:

Loại nước uống
Li có eo
Li thẳng suông (không eo)
6 oz
12 oz
6 oz
12 oz
Uống bia lager
20
20
20
20
Uống bia không có lager
20
20
20
20
 Chú thích: 1 oz bằng 29.57 ml. Do đó, 6 oz = 177 ml; 12 oz = 354 ml (tức 1 lon bia).

Đối tượng được cho uống bia khoảng 20 phút, trong thời gian 12 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Khi đối tượng uống bia thì có máy video thu hình.

http://news.sciencemag.org/sciencenow/assets_c/2012/08/sn-consumption2-thumb-800xauto-14466.jpg
Li bia phải (li thẳng) làm cho dân uống bia uống chậm hơn li bên trái

Kết quả cho thấy nhóm uống bia với li có hình eo có tốc độ uống nhanh hơn so với nhóm uống li thẳng. Thời gian uống hết một li bia có eo là khoảng 7.5 phút, so với 11 phút của nhóm uống bia với li thẳng. Còn nhóm uống nước không có lager thì không có sự khác biệt về thời gian uống giữa hai loại li.


Thời gian uống hết bia (12 oz) hoặc nước ngọt. Thanh màu đen thể hiện nhóm uống bia với li thẳng suông, thanh màu xám nhạt là nhóm uống với li eo. 

Tại sao uống li cong chậm hơn li thẳng? Rất khó có câu trả lời đặc hiệu cho sự khác biệt này, nhưng các nhà nghiên cứu (tâm lí học) lí giải rằng với li cong, người uống bia sẽ khó ước tính khi nào là đến nửa li, nên họ phải uống nhiều hơn để đoán rằng mình đã qua nửa chặn đường li!
Các công ti bia hình như đã biết được bí quyết này. Thật vậy, nhiều công ti như Stella Artois, Heineken, Guinness, Pilsner, Amstel, Smirnoff, Carlsberg, Carling và Jameson's whiskey, v.v. đã dùng li bia có vòng eo để chào hàng bấy lâu nay. 

Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa đến việc kiểm soát lượng tiêu thụ bia. Nếu các cơ quan chức trách không kiểm soát bằng thuế hay giá cả, thì họ có thể kiểm soát bằng cách yêu cầu các công ti bia rượu chỉ sản xuất li bia thẳng. Nhưng ngay cả yêu cầu này cũng khó khả thi vì không có lí do hay luật phát nào buộc các công ti phải làm như thế. Nhưng ở mức độ cá nhân, nếu muốn giảm liều lượng bia, chúng ta có thể chọn li thẳng. 

Công trình này có ý nghĩa đến Việt Nam. Việt Nam là một trong 25 nước uống bia nhiều nhất thế giới. Theo điều tra thị trường của Viện Kirin (2011), năm 2009 Việt Nam tiêu thụ 2123 tỉ lít bia, đến năm 2010 con số này là 2441 tỉ lít (tăng 15%). Với lượng tiêu thụ này, Việt Nam đứng hạng 13 trên thế giới (Trung Quốc đứng hạng 1). Nếu như nghiên cứu này đúng thì một cách có thể (chỉ “có thể” thôi) giảm tiêu thụ bia là cho giới uống bia dùng li thẳng. 

Tham khảo:

Attwood AS, Scott-Samuel NE, Stothart G, Munafò MR (2012) Glass Shape Influences Consumption Rate for Alcoholic Beverages. PLoS ONE 7(8): e43007. doi:10.1371/journal.pone.0043007
Read more ...

Bàn thêm về đào tạo tiến sĩ

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012
http://www.transitioning.org/wp-content/uploads/2012/02/phd.jpgXin giới thiệu một bài viết của Gs Pierre Darriulat về đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Bài báo "Đào tạo tiến sĩ : đối diện với thực tế" (bản tiếng Anh là Vietnamese PhDs : the need to face reality). Bản gốc bài báo viết bằng tiếng Anh, và báo Tia Sáng dịch sang tiếng Việt. Bản tiếng Anh có vẻ đầy đủ hơn bảng tiếng Việt (xem so sánh dưới đây). Bài viết nêu lên những bất cập trong đào tạo tiến sĩ, kể cả chuyện mua bán bằng cấp và viết hộ luận văn. Không chỉ là những vấn đề tiêu cực như thế, mà còn tồn tại nhiều vấn đề nghiêm trọng khác như qui trình đào tạo, chuyên môn của thầy cô hướng dẫn, cơ sở vật chất cho đào tạo, v.v.. Hệ quả là nhiều luận án cấp tiến sĩ nhưng không xứng đáng với học vị đó. Tôi thì nghĩ nên rà soát lại và nhận ra những trung tâm nào và cá nhân nào có thể đào tạo tiến sĩ, cũng như chấn chỉnh lại qui trình đào tạo và quản lí nghiên cứu sinh. Cách làm đại trà như hiện nay thì chỉ có thể cho ra những doctor chẳng ai công nhận.  


Trước khi gửi đăng báo, Pierre gửi cho vài bạn bè bình luận và cho ý kiến. Tôi đọc bản nháp và có góp ý (xem phần dưới). Trong lá thư góp ý, tôi muốn nhấn mạnh 3 điểm chính : mục tiêu học tiến sĩ sai lạc, qui trình đào tạo, chất lượng đào tạo, và chương trình hậu tiến sĩ. 

Mục đích học tiến sĩ có phần lệch lạc, và điều này thì báo chí cũng đã nêu lên nhiều lần. Mục đích của đào tạo tiến sĩ là đào tạo những nhà khoa học chuyên nghiệp (professional scientist) và những giảng viên, giáo sư tương lai cho đại học, qua trang bị những kĩ năng nghiên cứu khoa học và kiến thức chuyên sâu. Làm quản lí hay hành chính không cần phải học tiến sĩ. Nhưng ở Việt Nam, trong thực tế, nhiều người theo học tiến sĩ chủ yếu là để hợp thức hoá vị trí công tác hiện tại, hoặc thăng tiến trong nấc thang hành chính và quản lí. Cũng có người theo học vì mục tiêu tiến bộ khoa học nhưng số này chắc không nhiều. Do đó, mục đích đào tạo và học vị tiến sĩ đã bị làm cho lệch lạc. 

Qui trình quản lí nghiên cứu sinh cũng cần phải được bàn thảo một cách nghiêm chỉnh. Ở Việt Nam, qui trình đào tạo tiến sĩ thoạt đầu nhìn vào thì khá chặt chẽ, nhưng hình như chỉ lúc ban đầu. Nghiên cứu sinh phải thi và bảo vệ đề cương, có người hướng dẫn, tức không khác gì ở nước ngoài. Nhưng những người xét duyệt đề cương có khi chẳng có chuyên môn gì liên quan. Lại còn có vấn đề mã số, rất rắc rối và hành chính hoá đến mức độ … khó tin. Ngoài ra, qui trình quản lí nghiên cứu và nghiên cứu sinh thì không thấy đề cập đến. Luận án chủ yếu thông qua bởi một hội đồng gồm 6-8 người, mà nghiên cứu sinh phải chạy đôn chạy đáo để chọn và chi tiền cho họ ngồi xét duyệt ! Có thể nói rằng qui trình như thế mang tính hành chính nhiều hơn là khoa học. Hệ quả là nhiều nghiên cứu sinh khi vào học mới thấy mình tự học là chính, và người hướng dẫn thì chẳng giúp gì mà có khi lại chính là rào cản. 

Ở Úc, mỗi đại học hay viện đều có một hội đồng (thường gọi là Higher Degree Committee hay HDC) chuyên lo quản lí tiến độ của nghiên cứu sinh. Cứ mỗi 6 tháng, nghiên cứu sinh và người hướng dẫn phải đi dự phỏng vấn của HDC, để nhận ra những vấn đề đang vướng mắc và bàn biện pháp giải quyết. Có những vấn đề như nghiên cứu sinh thiếu chuyên môn phân tích, chưa biết viết bài báo khoa học, thiếu kĩ năng lab, v.v. thì HDC có nhiệm vụ giới thiệu nghiên cứu sinh đi học thêm những kĩ năng cần thiết. Những vấn đề cá nhân (như mâu thuẫn giữa thầy và trò) cũng có thể giải quyết. Ngoài làm việc với HDC, nghiên cứu sinh phải dự seminar hàng tuần, họp lab hàng tuần nghe người khác trình bày nghiên cứu, họp journal club để điểm qua những nghiên cứu của người khác, v.v. Mỗi năm, nghiên cứu sinh còn phải trình bày kết quả nghiên cứu để người khác săm soi. Với một qui trình như thế, nghiên cứu sinh cảm thấy mình không bị bỏ rơi, mà có hẳn một "bộ máy" hỗ trợ đằng sau mình, và tiến độ nghiên cứu được đảm bảo theo đúng thời gian định ra. 

Vấn đề chất lượng đào tạo rất đáng quan tâm. Thật vậy, những vấn đề đào tạo tiến sĩ ở trong nước có thể tóm tắt trong 2 chữ “chất lượng”. Chất lượng người hướng dẫn, chất lượng đề tài nghiên cứu, và chất lượng môi trường. 

Một nhân tố rất quan trọng trong đào tạo tiến sĩ là người hướng dẫn (tạm hiểu như là mentor). Ở Việt Nam, nơi nào có người với chức danh phó giáo sư hay giáo sư thì xem như đủ tư cách khoa học để hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Nhưng trong thực tế, không phải ai có bằng tiến sĩ hay chức danh giáo sư đều có thể hướng dẫn tiến sĩ. Những người có tư cách hướng dẫn nghiên cứu sinh không chỉ có chuyên môn cao, có tên tuổi trong chuyên ngành (qua công bố quốc tế), mà còn phải có chương trình nghiên cứu riêng. Không có chương trình nghiên cứu riêng, nghiên cứu sinh sẽ chẳng khác gì một người lang thang trong rừng, mất định hướng nghiên cứu. Nếu người hướng dẫn không có chuyên môn và kiến thức tốt, thì nghiên cứu sinh sẽ loay hoay với những đề tài tầm thường, những đề tài mang tính “me too” (bắt chước người khác một cách máy móc), không xứng đáng với luận án tiến sĩ. Khó nói ở Việt Nam có bao nhiêu người đủ khả năng hướng dẫn tiến sĩ, nhưng có lẽ con số không nhiều. 

Trong thực tế, nhiều đề tài nghiên cứu cấp tiến sĩ bị giới báo chí mỉa mai là “vô bổ”. Không biết các ngành khác thì sao, nhưng trong ngành y, chỉ nhìn vào nội dung luận án và phương pháp nghiên cứu của những luận án được công bố trên mạng, tôi phải nói rằng những luận án này chưa đạt trình độ tiến sĩ. Đại đa số những luận án này chỉ có một nghiên cứu và do đó phần kết quả rất ư là nghèo nàn. Đề tài cũng chỉ quanh quẩn những vấn đề cổ điển, hoặc những vấn đề mang tính dịch vụ, chứ không mang tính khoa học hay khám phá. Ở UNSW, chúng tôi vẫn cho những đề tài như thế cho sinh viên cử nhân hạng danh dự và học viên masters làm. Do đó, có thể nói rằng không ít luận án tiến sĩ ở Việt Nam (chỉ nói trong ngành y) chưa đạt chuẩn mực của một luận án tiến sĩ thực thụ. 

Chất lượng môi trường nghiên cứu cũng quan trọng. Ở Thái Lan, tuy họ có nhiều trường đại học, nhưng số trường có khả năng và điều kiện cơ sở vật chất đào tạo tiến sĩ thì rất ít. Trong các chuyên ngành như y học, đào tạo tiến sĩ rất tốn kém. Ở Úc, tính trung bình chi phí đào tạo tiến sĩ y học tốn khoảng 50 ngàn USD mỗi năm (so với các ngành khoa học tự nhiên chỉ khoảng 20 đến 30 ngàn USD). Cơ sở vật chất cho nghiên cứu sinh cần phải được đảm bảo ở mức độ tốt nhất, sao cho khi nhận nghiên cứu sinh vào là tất cả các điều kiện về thiết bị, kĩ thuật, cơ sở yểm trợ, v.v. đều đã sẵn sàng. Còn ở Việt Nam, tôi biết có nhiều nghiên cứu sinh tuy nói là học tiến sĩ nhưng chủ yếu dựa vào cơ sở vật chất nơi họ đang công tác. Ở ngoài, nghiên cứu tiến sĩ là phải tập trung toàn thời gian, còn ở Việt Nam, đại đa số chỉ làm bán thời gian. Nhiều nghiên cứu sinh "tự bơi" trong điều kiện thiếu thốn. 

http://cdn.arstechnica.net/wp-content/uploads/2011/09/phd072011s-4e6f64b-intro.gif
Một vấn đề quan trọng khác mà tôi muốn nhấn mạnh là chương trình đào tạo hậu tiến sĩ. Sau bài góp ý này, Pierre có thêm phần đào tạo hậu tiến sĩ. Ở trong nước, người ta nghĩ rằng xong chương trình tiến sĩ là đạt đỉnh cao học thuật, không cần học gì thêm nữa. Quan điểm này hết sức sai lầm. Xong tiến sĩ có thể ví von như là xong học nghề. Người học cần phải trao dồi tay nghề mới có thể trở thành độc lập. Nhưng rất tiếc là đại đa số tiến sĩ được VN gửi ra ngoài đào tạo chưa qua chương trình hậu tiến sĩ, vì theo qui định họ phải về nước. Vì thế, phần lớn chưa có cơ hội thực tập sau tiến sĩ, và trình độ có khi cũng còn hạn chế. Còn ở trong nước thì không có chương trình hậu tiến sĩ. Theo tôi, cần phải gửi nghiên cứu sinh xong tiến sĩ ra ngoài để theo đuổi chương trình hậu tiến sĩ để đào tạo những người này thành những nhà khoa học chuyên nghiệp. Điều này có thể không dễ, vì xin được một suất học hậu tiến sĩ rất khó và cạnh tranh ác liệt. Nhưng nếu nghiên cứu sinh có công bố quốc tế trên các tập san tốt thì việc xin nghiên cứu hậu tiến sĩ cũng dễ dàng hơn.
http://www.phdcomics.com/comics/archive/phd022509s.gif

Tóm lại, đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam còn tồn tại khá nhiều vấn đề, từ qui trình đến chất lượng. Tôi nghĩ cần phải rà soát lại tất cả các đại học đang đào tạo tiến sĩ để nhận ra những người hướng dẫn có khả năng, có chương trình nghiên cứu, và cơ sở vật chất thích hợp. Ngoài ra, cũng cần có những chương trình hậu tiến sĩ cho các nghiên cứu sinh sau khi tốt nghiệp có cơ hội rèn luyện để trở thành những nhà khoa học chuyên nghiệp. Đào tạo tiến sĩ rất quan trọng, và quan trọng nhất là phẩm chất khoa học, chứ không phải là những con số tròn trĩnh để đạt một “mục tiêu chính trị” nào đó. 

N.V.T 

====

Vietnamese PhDs: the need to face reality
 Pierre Darriulat 

Một bài báo gần đây1 đăng trên báo An ninh Thủ đô đã chỉ ra một số sai sót của hệ thống đào tạo tiến sĩ ở Việt Nam. Trong đó một sai phạm nghiêm trọng là một số nghiên cứu sinh đã mua luận văn được viết thuê với giá cả 500 triệu đồng từ những người kiếm sống bằng hoạt động gian lận này, trong đó có rất nhiều những tài liệu bị “cắt và dán” từ các công trình đã được công bố của người khác. Một sai sót thứ hai mà bài báo chỉ ra là hiện tượng thiếu năng lực của các hội đồng trong việc thẩm định kỹ năng cùng năng lực của nghiên cứu sinh, qua đó ngầm ám chỉ rằng các thành viên của những hội đồng này hoặc là kém cỏi, hoặc là tham nhũng, hoặc là cả hai. Sai sót thứ ba là việc thiếu những hình phạt đối với những sai phạm trên, đặc biệt là đối với những người viết thuê và bán những luận văn nghiên cứu giả tạo. 
Một trong những sai sót đề cập trên đây có sự liên quan tới những kết quả hạn chế của chương trình 322, có chức năng cử các sinh viên Việt Nam ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, ngầm ám chỉ rằng một số sinh viên được lựa chọn một cách không đủ nghiêm túc, hoặc không theo những tiêu chí lựa chọn thích hợp. Chương trình này đột ngột bị gián đoạn trong tháng 5 năm nay trước khi được phục hồi vào tháng 7.
Tác giả bài báo đưa ra kết luận với những số liệu đáng quan tâm. Đó là nhắc lại mục tiêu đặt ra của Chính phủ đạt được 20 nghìn tiến sĩ vào năm 2020 nhằm có được 30% các giảng viên đại học có bằng tiến sĩ. Tuy nhiên, tác giả ước tính rằng số lượng tiến sĩ cần thiết cho mục tiêu này thực chất phải là 60 nghìn, nghĩa là sẽ cần thêm 45 nghìn tiến sĩ nữa. Cả 2 con số này dường như đều không khả thi.
Rõ ràng là số lượng nghiên cứu sinh tiến sĩ mà Việt Nam có thể đào tạo rõ ràng thấp hơn so với kỳ vọng của Chính phủ. Do vậy chúng ta không thể kỳ vọng nhanh chóng tăng số lượng những giáo sư đại học đủ năng lực và đạo đức. Có lẽ điều cấp thiết phải làm ngay hiện nay là xác định ra những giáo sư như vậy, và tin tưởng giao phó cho họ công việc đào tạo và hướng dẫn các nghiên cứu sinh. Ở một số nước trên thế giới có một quy trình để làm điều này, đó là quy trình phong tặng danh hiệu “habilitation”. Sự phong tặng này hoàn toàn dựa trên thành tựu, căn cứ vào kỹ năng nghiên cứu và kết quả đạt được, số lượng và chất lượng các công bố khoa học, hiệu quả giảng dạy, sự ghi nhận trong phạm vi ngoài trường và phạm vi quốc tế, cùng những tiêu chí khác mà người ta cho rằng cần thiết, miễn là chúng phải khách quan, công bằng, không mở cửa cho sự tư tình và những sự bất công.
Việc đặt ra một danh hiệu như “habilitation” sẽ đem lại nhiều lợi ích, miễn là được thực hiện một cách có đạo đức, nghĩa là việc phong tặng phải do một ủy ban bên ngoài. Cần trả lương cao cho những người được phong tặng danh hiệu này, cũng như cho những người trẻ tuổi đã làm xong hậu tiến sĩ với năng lực đầy đủ và đang mong mỏi được tạo cơ hội.
Việc hướng dẫn một nghiên cứu sinh tiến sĩ cần rất nhiều thời gian và nỗ lực. Sẽ không hợp lý nếu đòi hỏi rằng một thầy hướng dẫn trung bình mỗi năm phải tạo ra được trên một tiến sĩ – nghĩa là đòi hỏi thầy hướng dẫn này phải liên tục hướng dẫn cho 3 nghiên cứu sinh tiến sĩ (thông thường thời gian hướng dẫn mỗi nghiên cứu sinh tiến sĩ là 3 năm).
Nhưng những gì đang xảy ra ở Việt Nam trong thời gian gần đây lại hoàn toàn trái ngược với những gì tôi trình bày trên đây: thay vì tuyển chọn thày hướng dẫn một cách nghiêm ngặt hơn và tin tưởng giao phó trách nhiệm cho họ, người ta lại tạo ra một hệ thống các quy định phức tạp nhằm giám sát, theo dõi công việc của họ2; các nghiên cứu sinh phải viết báo cáo ba tháng một lần cho học viện về tiến độ công việc của mình; họ phải trình bày 3 đề tài cơ bản trước một hội đồng đặc biệt thứ nhất; họ phải trình bày 3 đề tài cụ thể trước một hội đồng đặc biệt thứ hai; và họ phải bảo vệ đề tài của mình hai lần trước hai hội đồng đặc biệt khác.
Là người đã dành phần lớn sự nghiệp khoa học của mình tại một trung tâm nghiên cứu quốc tế, tôi đã giám sát và hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ từ khắp nơi trên thế giới, nhưng chưa ở nơi đâu tôi lại thấy một hệ thống phức tạp và quan liêu như vậy, một hệ thống đặt quá ít lòng tin vào những người thầy hướng dẫn.
Vấn đề cần quan tâm ở đây không phải là bằng cấp, mà là kỹ năng, năng lực, và tri thức hàm chứa đằng sau nó. Đào tạo ra 20 nghìn tiến sĩ để làm gì nếu tấm bằng có thể mua được bằng tiền? Chúng ta không cần đến những tấm bằng tiến sĩ được gắn trên tường văn phòng. Việt Nam cần những tiến sĩ có thể giúp đất nước vượt qua những thử thách trước mắt. Và những thứ luận văn sao chép không giúp gì cho điều này. Đây là thực tế không thể phủ định. [Vì vậy], chúng ta cần tập trung vào việc tạo ra những bằng cấp không bị giả tạo, thu hút các tài năng, và chỉ cần tạo ra số lượng bằng cấp trong giới hạn chừng mực khả năng thực tiễn của chúng ta.   
Chúng ta cũng cần hiểu rõ hơn làm sao để giúp những người đã làm xong hậu tiến sĩ có thể kết nối vào đời sống công việc, dù là mang tính học thuật hay phi học thuật. Cần có một chương trình theo dõi và tiếp tục đào tạo cho những người đã làm xong hậu tiến sĩ, căn cứ vào nhu cầu cơ bản chung của đất nước, và nhu cầu cụ thể của các trường đại học. Ngày nay, không ít những người đã làm hậu tiến sĩ ở những lĩnh vực tiên tiến nhất của vật lý học, cuối cùng phải đi dạy trung học (giáo viên trung học là một nghề đáng được tôn trọng, nhưng họ đâu cần đến bằng tiến sĩ để phải lãng phí tiền bạc và công sức), và rất hiếm những người làm hậu tiến sĩ tìm được công việc phù hợp với tài năng của mình ở Việt Nam.
Chúng ta cần thay đổi thói quen cố hữu hiện nay một cách quyết liệt. Cần tuyển chọn [sinh viên/nghiên cứu sinh] nghiêm túc hơn, và xử lý nghiêm khắc hơn những trường hợp gian lận. Cần xác định đúng hơn những người thầy có đủ nhân cách và năng lực để hướng dẫn các nghiên cứu sinh tiến sĩ. Cần đơn giản hóa hệ thống những quy định phức tạp, tương đồng với những tiêu chuẩn quốc tế, nhằm khuyến khích và giản lược hóa những thỏa thuận hợp tác đồng hướng dẫn (tiếng Pháp gọi là cotutelles3). Chúng ta cũng cần tăng cường mạnh mẽ những giảng viên trẻ trong các trường đại học bằng cách trao cho họ những cơ hội thực sự.
Hiện nay, sự tự tôn đang khiến chúng ta không dám đối diện hiện thực, và sự khiêm tốn khiến chúng ta không dám tham vọng [một cách thực tế]. Chúng ta cần phải có thái độ hoàn toàn ngược lại: sự tự tôn là để chúng ta tham vọng và tự tin; sự khiêm tốn để giúp chúng ta có nghị lực để đối diện với thực tế.
A recent article [1] published in An Ninh Thu Do reports on a number of dysfunctions of the Vietnamese system in awarding PhD degrees.
Such a major dysfunction is illustrated by the case of students buying their thesis at prices reaching up to 500 million VND from people earning their life with this fraudulent activity and making extensive use of the “copy-and-paste” facility from existing work published by others. A second dysfunction revealed by the article is the inability of the panels supposed to evaluate the skills and knowledge of such students to do a proper job, tacitly suggesting that their members are either incompetent or corrupted or both. A third dysfunction is the lack of adequate sanctions exerted against the actors of such frauds, in particular against those who produce and sell such fake thesis work.
Yet another dysfunction mentioned in the article is related with the mediocre results of the so-called 322 campaign of sending Vietnamese students abroad for their PhDs, tacitly suggesting that the students were not selected with sufficient rigor and/or according to proper criteria. The programme was abruptly stopped in May this year and resurrected in July.
The author of the article concludes with interesting arithmetic. She recalls the wish of the Government to have 20'000 PhDs by 2020 in order to have 30% of university teachers having a PhD degree. However, her estimate of the number of PhDs needed to reach this goal is 60'000, meaning 45'000 new PhDs. Anyhow, both numbers seem out of reach.
It is time (it is never too late) to face reality and to take due account of what is realistically affordable when estimating the number of new PhDs needed by Vietnamese universities; it is also time to have a clearer vision of the actions which are required to reach this goal.
For obvious historical reasons, on which there is no need to comment, Vietnamese universities suffer from not having a sufficient number of teachers having the ability to provide the level of training required by the country in its current phase of rapid development. Moreover, they suffer, as many other universities in the world, of hosting many more students than they are able to train.
Families having a sufficient income to pay the tuitions send their children to university in the hope for them to reach a higher social rank and become wealthier. However, the positive correlation between university studies and higher social rank and wealth, which used to apply before, can no longer apply when so many of our children access university. There is no doubt that having opened wide the doors of universities is a major achievement of the past century and will be retained by history as a big leap forward in terms of culture, democracy and human rights. At the same time it implies that the role of universities is no longer exclusively to train an elite. How to deal with this new situation is a well known problem worldwide; it is not specific to Vietnam but particularly acute in Vietnam which had a nearly feudal and in majority illiterate rural population less than a century ago. Foreign countries have met many obstacles in dealing with this problem, and have been only partly successful, not to say largely unsuccessful, at finding proper solutions. One of these is to promote professional crafts, meaning social respect and reasonable wages, and to organise a system of apprenticeship and technical schools that removes a fraction of the students from university. Another is to make room for short paths in university studies, allowing students to leave university and enter professional life (or a technical school) after only one or two years with a degree more modest than the bachelor degree. Finding solutions implies having a broad vision of education and training and a clear understanding of the needs of the country. Today, it is obvious that many too many students study marketing, business and economy but not enough students are trained in crafts and professions belonging to creative and productive sectors. It is also obvious that many too many students spend four or five years in the university learning essentially nothing and still come out with their bachelor degree. The need for more rigor in selection, not only to enter university but also to step up from one year to the next and, most importantly, to get the bachelor degree is obvious.
Independently from fraud or corruption, the number of PhD students that Vietnam can afford to train is clearly much less than hoped for by the Government. The number of university professors having the competence and the integrity to train PhD students is what it is and cannot change overnight. It seems to me essential and urgent to identify them and to place full confidence in their ability to supervise the work of their students. There is a mechanism to do so, which is being used in several foreign countries: the award of a title, called “habilitation” (to conduct research). It must be awarded on the sole basis of merit, taking due account of the research skills and achievements, of the number and quality of publications, of the performance as a teacher, of the recognition outside the university and outside the country, and of any other criterion considered important as long as it is objective and fair and does not open the door to favouritism or other unfair practices. Establishing such a title would have many advantages as long as it is done with integrity, implying the presence of outsiders in the committees in charge of awarding it. It would help in offering more reasonable wages to habilitated teachers and in giving positions to young postdocs who have the required competence and who badly need to be given a chance.
Supervising a PhD student takes much time and effort and it is unreasonable to assume, on average, that a single supervisor can produce more than one PhD a year – meaning continuous supervision of three PhD students (the nominal duration of PhD studies is three years). What has been done recently is the very contrary of what I suggest here: instead of selecting supervisors more severely and placing full confidence in their competence, one has established a new set of complicated rules meant at monitoring and watching their work[2] ; the student must report every third month to the doctoral school about the progress of his/her work; he/she must present three general subjects in front of a first special panel; he/she must present three specific subjects in front of a second special panel; he/she must defend his thesis twice in front of two additional   different panels. Having spent most of my scientific life in an international research centre, I have followed and supervised the work of PhD students from all over the world. Never before did I meet such a complicated and big-brother-like system placing so little confidence in the thesis supervisor.
It is not the degree that matters; it is the skill, competence and knowledge that it implies. What is the point of producing 20'000 PhDs if the degrees can be bought from the shelf? We do not need PhD degrees to frame them and hang them on the walls of our offices. Vietnam needs PhDs to overcome the challenges that it has to face. Copy-and-paste does not work for that. Never mind the number of PhDs that the country can afford to produce. It is what it is. Let us concentrate on making sure that they are not fake, that they serve the purpose of bringing new talents to the country and that they are as many as we can possibly afford to produce.
Let us also understand better how young postdocs can be properly integrated in their professional life, whether academic or other. There should be a programme dedicated to the follow up and further training of young postdocs, taking due account of the needs of the country in general, and of universities in particular. Today, it is not uncommon to see a postdoc trained in a forefront field of physics end up as a highschool teacher and it is quite rare to see such a postdoc find a job in Vietnam in which he/she can make good use of his talents. There is nothing wrong with being a highschool teacher, but it is a waste of money and effort to have trained him/her as a doctor.
We need to change our habits drastically. We need to be more selective, more rigorous, and more severe against those who cheat. We need to better identify those who have the integrity and ability to train PhD students and who can be trusted to do so. We need to simplify the rules of the game, to make them match those in foreign countries, to encourage and simplify the use of joint supervision agreements (cotutelles in French [3]). We need to massively bring new blood to the university by giving a real chance to the new generation.
Today, pride prevents us from facing reality; humility prevents us from being ambitious. We should behave the very opposite way: pride should give us ambition and confidence; humility should give us the courage to face reality.

[1] Quynh Nga, An Ninh Thu Do, Tiến sĩ ơi là tiến sĩ ơi!, October 28th 2012.
[3] P. Darriulat, Tia Sang, Hình thức thực hiện Luận án đồng hướng dẫn, July 2011.

Tuan's comments 

Very well said, Pierre.  I think most of us here would easily agree with you that the system needs a major overhaul.  It’s actually long overdue.  There are a lot of problems with the way that doctoral training programs in Vietnam are structured. 

First, many people pursue a doctoral study for a wrong purpose.  When asked why they want to do a PhD study, most students would say that they need the degree to move up the admin or managerial ladder!  Some said that they were under pressure to undertake the study to keep/justify their current position. This sounds rather strange, but there exists a regulation that one has to possess a doctoral degree to hold a certain senior post within a ministry/hospital/institute/university. That explains why many people are prepared to pay a substantial amount of money to get the degree. So, as you can see, they do not “study” for the sake of science or truth finding.  Of course, there are still some students who pursue a doctoral study to acquire new skills and to satisfy their scientific curiosity, but I suspect that this is increasingly becoming a “rare species” in Vietnam.

Second, many issues of PhD training in Vietnam can be summarized in one word: quality.  Let me eleborate this point a little bit here:

Quality of professors.  How many professors and lecturers in Vietnam can actually be qualified as PhD supervisors? I guess if I use my own UNSW standard as a benchmark, then the number of eligible supervisors is not that many.  Many professors supervise PhD students but the professors themselves do not have even a single intenatonal peer reviewed publication in their CV.  What sort of “doctors” will those supervisors churn out?

Quality of research projects.  I am not familiar with non-medical disciplines, but in medicine, I can say that many (if not to say MOST) PhD projects do not meet criteria of doctorate-level projects.  If you know Vietnamese, you can have a scan here http://yte.gov.vn/Luan%20an%20tien%20sy.htm, and you will quickly find that these theses are really equivalent to exercises for bachelor or master’s students. In my university, we usually ask bachelor students (honors level) to do this kind of work.

Quality of environment. Training PhD students is a serious affair that can not be taken lightly. Yet, in Vietnam, many students conduct their study without any infrastructure support and mentorship in place.  As a results, their progress can not be verified.  It is even not possible to be sure whether the data they have collected were based on real experiments or made up.  I should also add that many medical studies in Vietnam, especially the ones initiated by public institutions, violate ethical principles.  In medical research, if a study was not conducted in accordance with the Helsinki’s ethical principle, the investigators could be fired or even jailed and the data are not in any way accepted for publication in any means.

Third, there is a very important point that I think you should mention: postdoc training.  The idea of postdoc training is not new to us, but it is something unfamiliar to many Vietnamese colleagues.  In Vietnam, many people do not realize that completing a PhD study is only the end of a appenticeship phase, and they need to undertake further postdoc training(s) to “garnish” their skills with the view of becoming an independent/professional scientist.  As far as I know, it seems that there are NO postdoc training programs in Vietnam. As a result, we have so many people with a PhD degree but they are not real doctor; they are half-technician and half-doctor.

Some time ago, I proposed to temporarily halt all PhD training programs in Vietnam, and then have a proper independent evaluation to identify suitable institutions and individuals. I am a little bit tired / disappointed these days, because I feel that our opinions and views are not heard. 

Read more ...

Bác sĩ bị giam tại gia vì tống tiền?

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgxB2OtbBH4JVUpo8q2E-9B2-0XhpIxg4U8l-D12BWVomrV6uQDj0unp9eTaUZgPmA2cIKFfYZN5b9UIYHdzqHvPaX7x85kaQcRrYPxuFZaifFiqgLHv446JmCNIRYOqYQ17PfQaYc1GNo/Người Ý đối xử với giới khoa học làm nhiều người ngạc nhiên. Tháng trước, một phiên toà ở Ý tuyên án tù giam cho các nhà khoa học Ý vì không cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ trong trận động đất tại thành phố L’Aquila. Nay lại thêm tin một bác sĩ phẫu thuật rất nổi tiếng bị giam tại nhà vì bị tố cáo tống tiền bệnh nhân. 


Ông là Giáo sư Paolo Macchiarini, một nhà phẫu thuật lồng ngực rất nổi tiếng trên thế giới. Ông nổi tiếng vì là người tiên phong trong giải phẫu ghép khí quản ở người lớn và trẻ em mà không dùng thuốc ức chế miễn dịch. Ông còn là một nhà nghiên cứu có tiếng, đứng đầu một lab về y học tái sinh (regenerative medicine) tại Viện Karolinska. Báo chí Âu châu gọi ông là Super Surgeon – siêu phẫu thuật viên.

Nhưng ông đã không may mắn trong thời gian gần đây. Khởi đầu là một bài báo của ông bị rút xuống từ tập san Annals of Thoracic Surgery. Lí do rút xuống là vì trong bài báo có một bảng số liệu của một bài báo khác trước đây, nhưng tác giả không ghi nguồn. Nhưng một nguồn tin mới nhất cho biết ông còn bị giam lỏng tại gia. Ông bị cấm không được rời nước Ý, nhưng được cho phép giải phẫu 15 bệnh nhân tại bệnh viện Careggi, nơi ông có hợp đồng làm việc dài hạn. Bản tin này có thể tóm lược vài ý chính dưới đây.

Báo chí Ý cho rằng ông chẳng làm việc vì khoa học hay giúp người, mà chỉ muốn làm giàu. Bệnh nhân tố cáo ông từng nói với họ trả một số tiền khá lớn để ông sắp xếp giải phẫu sớm hơn. Một bệnh nhân người Đức cho biết Bác sĩ Paolo Macchiarini đòi 150,000 Euro để ông chăm sóc kĩ hơn. Một bệnh nhân khác thì tố cáo ông đòi 130,000 Euro để điều trị trong một bệnh viện tư ở Anh. Nên nhớ rằng những cáo buộc này chỉ là “attempted fraud” chứ chưa xảy ra trong thực tế. Nhưng Bs Macchiarini bác bỏ những cáo buộc đó. Luật sư của ông cho biết ông rất bực mình vì những cáo buộc như thế, và ông cảm thấy hối hận khi phải quay lại Ý (quê hương ông).

Mối quan hệ giữa ông và nước Ý không được “mặn mà” mấy. Năm 2008, một quan chức y tế hứa với ông sẽ tìm cách đề bạt chức danh giáo sư cho ông, nhưng sự việc không xảy ra. Sau đó, một lời hứa khác cho ông làm giám đốc một lab nghiên cứu lồng ngực ở Âu châu cũng không thành sự thật. Đến năm 2010, một bệnh nhân của ông bị nhiễm trùng và tử vong sau phẫu thuật, làm ông tố cáo bệnh viện thiếu trách nhiệm! Bệnh viện buộc ông từ chức. Sau khi ông từ chức, Viện Karolinska (Thuỵ Điển) “nhảy vào” cứu ông và bổ nhiệm làm invited professor (giáo sư thỉnh giảng) của một lab nghiên cứu. Đến tháng 2/2012, bệnh viện Carreggi (Ý) mời ông lãnh đạo một lab nghiên cứu hệ hô hấp với mức lương 310,000 Euro/năm.

Rõ ràng, Bs Paolo Macchiarini là một nhà khoa học có tài. Viện Karolinska rất tự hào về thành tựu của ông. Những cáo buộc chống lại ông xem ra chưa có gì thuyết phục (một giáo sư danh tiếng như thế mà đi “thương lượng” 130 ngàn Euro!) Ấy thế mà nhà chức trách Ý lại giam tại gia! Nếu Việt Nam xử sự theo kiểu Ý tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Read more ...

“Phong bì y tế” có thể hơn nửa tỉ USD mỗi năm!

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012
http://images.yume.vn/buzz/20121027/1-PH1.jpgHôm qua, tôi đọc được một bản tin rất đáng chú ý về “Nghiên cứu nạn đưa phong bì tại bệnh viện”. Đáng chú ý là người thực hiện nghiên cứu là một em sinh viên (tên là Trần Thị Mai). Hay thật! Đáng lẽ ngành y tế nên thực hiện nghiên cứu này, nhưng có lẽ ngành còn quan tâm những chuyện khác, nên để cho người ngoài ngành làm, và làm có vẻ tốt. Nhân đọc vài kết quả của nghiên cứu này, tôi ước tính rằng mỗi năm bệnh nhân đưa hối lộ cho bác sĩ và y tá khoảng 660 triệu USD.


Những câu hỏi nghiên cứu mà em đặt ra liên quan đến tình trạng bệnh nhân “đưa phong bì” cho bác sĩ và y tá. Nói thẳng ra là hối lộ (theo cách hiểu “Nhận dăm ba chục ngàn đồng cũng là tham nhũng”). Những câu hỏi nghiên cứu mà em muốn trả lời toàn là những vấn đề cả xã hội quan tâm: tại sao đưa phong bì, cách thức đưa, thái độ của bác sĩ và y tá sau khi nhận phong bì, v.v. Em còn nói thêm rằng “Báo chí đã nói nhiều đến vấn đề này nhưng tôi mong muốn có số liệu cụ thể để thấy được khách quan, chủ quan của việc đưa phong bì.” Nói cách khác (mà có lẽ em chưa biết) tinh thần của em đúng là tinh thần của y học thực chứng. Tình trạng đưa và nhận phong bì đã được nói đến nhiều lần, nhưng chưa ai có bằng chứng định lượng để phát biểu cụ thể, nên em làm nghiên cứu này. Hoan hô tinh thần khoa học của em Trần Thị Mai! Tôi chợt lan man ước gì các vị quan chức và bộ trưởng đều suy nghĩ và hành động như em sinh viên này. 

Để trả lời những câu hỏi trên, em thiết kế nghiên cứu theo mô hình survey – điều tra xã hội. Hai trăm bảng câu hỏi (questionnaire) được phát ra, và có 146 người (tức 73%) trả lời. Có lẽ tỉ lệ người trả lời không được cao, nhưng tôi nghĩ đó là một tỉ lệ rất đáng khích lệ, vì trong thực tế có nghiên cứu không đạt được 50%! Không rõ cách chọn mẫu được thực hiện như thế nào, nhưng tôi đoán với tỉ lệ tham nhũng / hối lộ quá cao thì có lẽ cách chọn mẫu cũng không ảnh hưởng lớn đến kết quả nghiên cứu. Trả lời câu hỏi của ai đó trong ban giám khảo, em tỏ ra là người hiểu biết phương pháp nghiên cứu, thể hiện qua câu này: “[…] Em nghĩ quan trọng là cách mình chọn mẫu như thế nào, còn số lượng đôi khi không quyết định đến kết quả nghiên cứu. Ví dụ như trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, với lượng dân số cả trăm triệu nhưng người ta chỉ khảo sát trên 1.000-2.000 dân. Đó là con số đại diện và cách chọn mẫu của em mang tính xác suất cao.” Rất nhiều người ở VN vẫn còn mang trong đầu kiểu làm kiểm kê, điều tra dân số, kiểu nghiên cứu theo mô hình xã hội chủ nghĩa (cái gì cũng lấy mẫu cả nước) sẽ không hài lòng với câu trả lời của em. Nhưng tôi thì nghĩ rằng em nói đúng (dù câu sau cùng chứng tỏ em hơi … lúng túng). Không cần phải lấy “mẫu đại diện” cả nước để có bằng chứng; chỉ cần lấy mẫu tốt ở một vài địa điểm là cũng có thể đảm bảo tính external validity (hợp lí ngoại tại) của bằng chứng nghiên cứu. Công trình nghiên cứu Framingham của Mĩ chỉ làm ở một quận nhỏ thuộc bang MA, nhưng kết quả có thể ứng dụng cho toàn dân số Mĩ và cả thế giới.

Kết quả cho thấy 76% người biết hay tự mình đưa phong bì cho nhân viên y tế. Con số này xem ra phù hợp với một nghiên cứu trước đây ở Hà Nội cho thấy khoảng 70% bác sĩ và y tá thú nhận có vi phạm y đức, kể cả [dĩ nhiên] nhận phong bì từ bệnh nhân. 

Tại sao hối lộ cho bác sĩ và y tá? Có lẽ những ai từng hối lộ thì câu hỏi này thừa, không làm cũng biết. Nhưng đối với người làm nghiên cứu thì câu hỏi này phải đặt ra, cần phải có chứng cứ và con số. Theo tác giả thì những lí do chính để hối lộ là được ưu tiên, được chăm sóc tốt hơn: “64% người được khảo sát cho rằng quá tải tác động đến việc đưa phong bì vì ai cũng muốn được nhanh, được chăm sóc, được ‘để ý’ nên đưa để được giải quyết nhanh hơn.” Đưa hối lộ có hiệu quả không? Câu trả lời là có. Theo tác giả, có đến 81% bệnh nhân cho biết hay đồng ý rằng sau khi đưa phong bì thì thái độ phục vụ của y tá và bác sĩ có tận tình hơn, tích cực hơn.

Đưa hối lộ như thế nào? Xem ra cách thức khá phong phú, từ kẹp trong số khám bệnh, nhét vào túi áo, đến hiện vật. Không thấy tác giả cho biết cách thức đưa tiền nào phổ biến nhất. Có được thông tin đó cũng giúp ích cho những bệnh nhân chưa biết hối lộ như thế nào! Bệnh nhân thường chọn chỗ vắng người, hoặc trong phòng điều trị, hoặc phòng mạch / nhà riêng của bác sĩ. Mới đây, Bộ trưởng Y tế tuyên bố rằng bác sĩ hay y tá nào nhận phong bì thì bệnh nhân nên chụp hình và gửi cho bà bộ trưởng. Trả lời tính liên quan của nghiên cứu, em sinh viên Trần Thị Mai nói: "Qua khảo sát, người nhà bệnh nhân chỉ đưa phong bì ở những nơi vắng người, không có người qua lại nên không thể chụp ảnh được. Em nghĩ đó có thể là giải pháp trong sự bế tắc của ngành y tế." Câu trả lời cũng có thể hiểu như là một bác bỏ lời khuyên của Bộ trưởng.

Đưa bao nhiêu? Bài báo trên Tuổi Trẻ có một bảng thống kê thú vị dưới đây. Nhìn vào bảng số liệu này, chúng ta dễ dàng thấy bệnh nhân cho tiền bác sĩ nhiều hơn là cho y tá. Không rõ số tiền bệnh nhân hối lộ cho các phó giáo sư và giáo sư là bao nhiêu, nhưng những số liệu này cho thấy tiền hối lộ cũng phụ thuộc vào đẳng cấp.  

Tiền trong phong bì
Số y tá nhận
Số bác sĩ nhận
20,000 – 50,000
47
3
100,000 – 200,000
49
29
300,000 – 500,000
8
39
600,000 – 1 triệu
3
15
Trên 1 triệu
0
13

Dựa vào những con số trên đây, tôi ước tính rằng số tiền trung bình hối lộ cho y tá là 136,400 đồng, và cho bác sĩ là 586,400 đồng. Tính trung bình (y tá và bác sĩ), mỗi lần hối lộ là 352,600 đồng, tức khoảng 18 USD.

Một con số có lẽ bất cứ ai trong chúng ta muốn biết là mỗi năm bệnh nhân đã hối lộ cho bác sĩ và y tá bao nhiêu tiền. Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải biết con số bệnh nhân nhập viện mỗi năm. Rất tiếc, thống kê của Bộ Y tế không có con số này (nhưng họ có những con số khác mà chúng ta không cần biết). Do đó, tôi phải dùng thống kê của Úc.   Theo số liệu thống kê năm 2010-2011 của Úc, số bệnh nhân nhập viện là khoảng 8.9 triệu người. Với dân số gần 21 triệu, con số bệnh nhân nhập viện là 42%. Nếu dân số Việt Nam là 87 triệu, và giả định rằng tỉ lệ nhập viện cũng tương đương với Úc, thì có khoảng 36.87 triệu bệnh nhân nhập viện. Có lẽ con số này còn thấp hơn thực tế, nhưng chúng ta có thể tạm chấp nhận con số 37 triệu lượt bệnh nhân nhập viện. Do đó, có thể ước tính rằng mỗi năm bệnh nhân VN hối lộ cho bác sĩ và y tá khoảng 18 x 37 = 666 triệu USD.

Đó là một con số khá lớn, nếu đặt trong bối cảnh tổng chi phí điều trị. Trong một điều tra xã hội trước đây của Ts Trần Hữu Quang (“Càng nghèo, chi phí y tế càng là gánh nặng”), chi phí y tế trung bình cho mỗi bệnh nhân mỗi năm là 2.9 triệu đồng, tức khoảng 145 USD. Nếu có ~37 triệu bệnh nhân thì chi phí y tế là 5.365 tỉ USD. Cộng thêm tiền hối lộ cho bác sĩ và y tá thì tổng chi phí cho y tế là 6 tỉ USD, trong đó 12% là hối lộ cho nhân viên y tế. Kinh khủng!

Sinh viên Trần Thị Mai trình bày đề tài trước hội đồng khoa học và các số liệu trong đề tài.
Sinh viên Trần Thị Mai trình bày đề tài trước hội đồng khoa học và các số liệu trong đề tài.
Một điều đáng nói ở đây là công trình này chỉ tốn hơn 2 triệu đồng, và tác giả chỉ mới là một sinh viên năm thứ 3. Chỉ hơn 2 triệu đồng mà em đã làm được một nghiên cứu có giá trị, chắc chắn có giá trị hơn hàng trăm nghiên cứu vô bổ nhưng với cấp “tiến sĩ”. Việc làm của em sinh viên này cũng là một cách trả lời cho những ai chỉ nói mà không dám làm, cho những ai đòi phải có tiền mới làm nghiên cứu có giá trị. Em Trần Thị Mai chứng minh cho họ thấy đó chỉ là những lời nguỵ biện cho sự lười biếng hay kém cỏi của họ.  

Dĩ nhiên, nghiên cứu này chỉ là một nỗ lực ban đầu, và kết quả đặt ra nhiều câu hỏi nghiên cứu khác. Có lẽ tác giả là người ngoài ngành y, nên có lẽ chưa tiếp cận được y văn về lĩnh vực này. Ngoài ra, cách thiết kế bộ câu hỏi hình như cũng còn đôi điều cải tiến cho đúng phương pháp hơn. Cần phải chú ý đến khía cạnh đạo đức khoa học. Tôi nghĩ nếu em có cơ hội tiếp cận y văn và phát triển đề cương nghiên cứu một cách chi tiết và hệ thống hơn (như Health Affairs chẳng hạn), đề tài của em hoàn toàn xứng đáng một luận án tiến sĩ. Nhưng với kết quả hiện tại, tôi nghĩ em có thể viết thành một bài báo khoa học gửi đăng trên một tập san quốc tế. Tôi đoán mình cũng có thể tiếp em một tay nếu có dịp và có thì giờ.

N.V.T

====


Nghiên cứu nạn đưa phong bì tại bệnh viện
TT - Sáng 25-11, tại chung kết “Giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka 2012”, đề tài “Hiện tượng đưa phong bì tại bệnh viện ở TP.HCM” của Trần Thị Mai - SV Trường ĐH Mở TP.HCM - đã gây ấn tượng với ban giám khảo.

Theo lời tâm sự của Mai, lý do để Mai đến với đề tài được đánh giá là “nóng” này bắt nguồn từ một “thắc mắc”. Mai cho biết: “Lúc đầu tôi không chọn đề tài này. Nhưng sau khi nghe một chị nói chị đi thăm người thân tại bệnh viện, thấy có một số người đưa phong bì cho bác sĩ. Tôi cứ thắc mắc tại sao họ lại đưa phong bì, họ đưa như thế nào, thái độ phục vụ của y tá, bác sĩ ra sao sau khi nhận phong bì... Báo chí đã nói nhiều đến vấn đề này nhưng tôi mong muốn có số liệu cụ thể để thấy được khách quan, chủ quan của việc đưa phong bì”.
Mong được tiếp tục khảo sát thêm
* Kết quả đáng lưu ý trong đề tài của bạn?
- Tôi phát ra 200 bảng hỏi cho người nhà bệnh nhân tại bốn bệnh viện lớn ở TP.HCM. Trong 146 bảng hợp lệ thu lại, số người nói có biết hiện tượng đưa phong bì cho nhân viên y tế chiếm 76%. Đáng chú ý, có 53/146 người cho biết họ có trực tiếp đưa phong bì cho y tá, bác sĩ theo các hình thức như kẹp trong sổ khám bệnh, nhét vào túi áo y tá, bác sĩ hay đưa kèm hiện vật... Hơn một nửa trong số này cho biết họ thường chọn địa điểm vắng người trong bệnh viện để đưa phong bì, kế đến là đưa trong phòng điều trị bệnh nhân, phòng bác sĩ và cả nhà riêng của bác sĩ.
* Người nhà bệnh nhân đón nhận những bảng hỏi về phong bì như thế nào?

"Vừa rồi, liên quan đến đề tài của em, có một câu của bộ trưởng Bộ Y tế nói nếu ai đưa phong bì thì chụp ảnh, giao cho bộ trưởng. Em bình luận thế nào?"
PGS.TS Phan An 
(trưởng ban giám khảo lĩnh vực xã hội - nhân văn)
- Họ ngại nói về vấn đề tế nhị này nên đôi khi rất khó thuyết phục trả lời bảng hỏi. Tại một bệnh viện, tôi đi thẳng vào phòng bệnh nhân, ngồi trò chuyện trực tiếp với người nhà của họ, nhờ cho ý kiến và giải thích những câu họ chưa hiểu. Cũng có người mình hỏi họ không trả lời. Người ngồi cạnh thấy thế cũng không trả lời luôn. Nhưng cũng có người hỗ trợ tận tình vì bức xúc khi phải đưa phong bì.

* Trong đề tài của bạn, người được hỏi nói gì về những lý do khiến họ phải đưa phong bì cho nhân viên y tế?
- Trong khảo sát của tôi, 64% người được khảo sát cho rằng quá tải tác động đến việc đưa phong bì vì ai cũng muốn được nhanh, được chăm sóc, được “để ý” nên đưa để được giải quyết nhanh hơn.
Nhiều người hoàn cảnh khó khăn nhưng “nghèo đưa theo kiểu nghèo” để mong được chăm sóc tốt hơn. Họ sợ bị phân biệt đối xử trong quá trình điều trị tại bệnh viện. Ngoài ra, có đến 90,9% người được hỏi “đồng ý” việc đưa phong bì là để mong muốn người thân của mình sẽ được chăm sóc tận tình, chu đáo hơn. Và 80,8% cũng rất đồng ý, đồng ý sau khi đưa phong bì, thái độ phục vụ của y tá, bác sĩ có “quan tâm hơn”.
* Bạn mong muốn điều gì qua đề tài của mình?
- Tôi chưa đi sâu vào giải thích những vấn đề đưa ra. Tôi mong muốn được tiếp tục khảo sát thêm, phỏng vấn sâu với người nhà bệnh nhân, ý kiến của y tá, bác sĩ về vấn đề này. Qua nghiên cứu, tôi hỏi người nhà bệnh nhân giải pháp nào để giảm bớt tình trạng đưa phong bì. Kết quả thu được cho rằng thủ tục khám chữa bệnh tránh rườm rà, phức tạp, tiếp đến là quan tâm đến mức lương và đời sống của nhân viên y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và người dân cần ý thức trong khi khám và chữa bệnh.

"Qua khảo sát, người nhà bệnh nhân chỉ đưa phong bì ở những nơi vắng người, không có người qua lại nên không thể chụp ảnh được. Em nghĩ đó có thể là giải pháp trong sự bế tắc của ngành y tế"
SV Trần Thị Mai
Đề tài của tôi cũng đưa ra khuyến nghị để giải quyết hiện tượng đưa phong bì trong bệnh viện cần phải có sự chung tay của cả bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, y tá - bác sĩ và các cấp lãnh đạo trong ngành y tế và các ngành có liên quan.

Giám khảo hứng thú với đề tài
Ngoài phần nhận xét, phản biện, năm thành viên ban giám khảo cũng bàn luận thêm về câu chuyện phong bì.
Sau phần báo cáo tóm tắt, PGS.TS Nguyễn Công Đức - thành viên ban giám khảo - giơ tay: “Sở dĩ tôi nhanh nhảu xin có ý kiến đầu tiên vì có chút liên quan đến “sếp” (vợ - PV) của tôi ở nhà. Đồng chí ấy là bác sĩ. Hôm kia tôi bảo cô ấy đến nghe xem đúng được bao nhiêu. Nhưng dứt khoát tôi nghĩ ngành y tế của chúng ta, trong cơ chế hiện nay có nhiều tiêu cực. Cho nên, đề tài này nếu làm tốt sẽ góp phần giải quyết một vấn nạn xã hội đang nhức nhối. Có 200 phiếu được phát ra, thu về 146 bảng hợp lệ. Vậy, tôi đề nghị tác giả đánh giá thêm sự tương thích giữa thực tế với số lượng phiếu thu về”.
Sau phần chuẩn bị, Mai trả lời: “Công trình nghiên cứu của em mang tính ý tưởng, nghiên cứu và khám phá. Em nghĩ quan trọng là cách mình chọn mẫu như thế nào, còn số lượng đôi khi không quyết định đến kết quả nghiên cứu. Ví dụ như trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, với lượng dân số cả trăm triệu nhưng người ta chỉ khảo sát trên 1.000-2.000 dân. Đó là con số đại diện và cách chọn mẫu của em mang tính xác suất cao”.
Trước khi đặt câu hỏi, PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân - thành viên ban giám khảo - nhận định phong bì là hiện tượng nhức nhối nên đề tài hấp dẫn và có tính cấp thiết cao. “Thế nhưng, hiện tượng đưa phong bì không chỉ có trong lĩnh vực y tế mà còn nhiều lĩnh vực khác như thủ tục hành chính, thuế quan, báo chí và cả giáo dục. Tác giả có nghĩ đến giải pháp để giải quyết hiện tượng này trên quy mô rộng hơn, ở các lĩnh vực khác nữa không?”.
“Lúc đầu, em cũng có nghĩ đến hiện tượng đưa phong bì ở những lĩnh vực khác. Nhưng em chọn khảo sát tại bệnh viện vì đây là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Em nghĩ nếu mình đưa ra giải pháp ở tầm vĩ mô thì phải nghiên cứu ở tầm vĩ mô hơn để có những thông số, từ đó có những giải pháp sát thực tế. Em không đưa ra giải pháp trên diện rộng vì sẽ không đồng bộ. Em nghĩ có thể giải quyết riêng trong vấn đề này ở bệnh viện, sau đó mới mở rộng ra các lĩnh vực khác” - Mai nói.
Đặt hàng thêm
PGS.TS Lê Thanh Sang - thành viên ban giám khảo - đánh giá ở mức độ nghiên cứu khoa học sinh viên, với những trình bày trong báo cáo thì đó là sự khích lệ và nỗ lực đáng ghi nhận. Theo TS Sang, đề tài đã mô tả, giải thích được ở mức độ nhất định hiện tượng đưa phong bì tại một số bệnh viện tiêu biểu mà tác giả lựa chọn.
“Báo cáo cho thấy tác giả biết cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích để đưa ra kết quả về mức độ phổ biến của việc đưa phong bì như đưa bao nhiêu lần, mỗi lần đưa bao nhiêu, ai là người đưa nhiều hơn, ai đưa ít hơn theo nghề nghiệp, thu nhập. Một hạn chế của đề tài là không có định tính. Kết quả của đề tài chỉ mô tả, theo mẫu định lượng nên không giải thích được vấn đề đưa ra. Một vài phần còn mang tính chủ quan” - ông Sang nói.
Sau phần phản biện, nhận xét của các giám khảo, PGS.TS Nguyễn Công Đức “xin được nói thêm” về chuyện phong bì.
Ông Đức kể: “Vợ tôi là bác sĩ nên cũng hay được trao và cô ấy cũng hay từ chối. Đối tượng y tá, bác sĩ, điều dưỡng cũng giống như chúng tôi. Tôi biết có những luận án tiến sĩ rất tệ nhưng bỏ phong bì là qua hết. Ở bệnh viện, chuyện phong bì chỉ liên quan đến một người. Trong khi qua phong bì mà một người nào đó thành tiến sĩ, nhà khoa học thì tác hại hơn nhiều”. Cuối cùng, ông Đức đặt hàng: “Xong đề tài nghiên cứu này, tác giả nên lấy đối tượng như chúng tôi, trong lĩnh vực của chúng tôi để nghiên cứu tiếp...”.
HÀ BÌNH
Read more ...

Điểm sách: Nghĩ nhanh, nghĩ chậm

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012
http://greatesthitsblog.com/wp-content/uploads/2011/12/THINKING-FAST-AND-SLOW.jpgĐây là một cuốn sách rất thú vị và hay. Cuốn sách có tựa đề là Thinking, fast and slow, tuy là sách dành cho đại chúng, nhưng trong đó tác giả thuật lại  những nghiên cứu tâm lí và xã hội học được thiết kế một cách thông minh. Tác giả là Daniel Kahneman, một nhà tâm lí học nổi tiếng, từng đoạt giải Nobel kinh tế. Trong bài này, tôi điểm qua cuốn sách và có đề nghị nên dịch sang tiếng Việt. Phải nói rằng đây là một trong những cuốn sách tôi rất tâm đắc trong thời gian gần đây (sau cuốn Born to be good - the science of a meaningful life). Đọc cuốn Thinking, fast and slow, bạn đọc có cảm giác tác giả hiểu mình rất rõ! Bài đã đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (bạn đọc phải đăng kí mới đọc được). 


Chúng ta vẫn tưởng rằng con người vốn đầy lí trí, quyết định có suy tính cẩn thận. Nhưng Daniel Kahneman và đồng nghiệp Amos Tversky, trong cuốn Thinking, fast and slow (tạm dịch: Nghĩ nhanh, nghĩ chậm), đã chứng minh trong cuộc sống hàng ngày và cả đời sống kinh tế, chúng ta thường quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính, và chủ quan. Đây là một công trình tâm lý học có tính hàn lâm cao, nhưng được viết rất dễ hiểu và vui nhộn.

Một cuốn sách hay, theo tôi, phải mang tính thách thức quan điểm của người đọc nhưng đồng thời phải mang tính giải trí. Cuốn Thinking, fast and slow (tạm dịch Nghĩ nhanh, nghĩ chậm) của Daniel Kahneman đáp ứng hai tiêu chí này. Trong một thời gian dài, các học giả đã gieo vào chúng ta một quan điểm là chúng ta – con người – như là những người đầy lí trí, quyết định một cách có tính toán cẩn thận. Nhưng Daniel Kahneman và đồng nghiệp của ông là Amos Tversky chứng minh rằng quan điểm đó sai. Trong cuộc sống hàng ngày, kể cả đời sống kinh tế, chúng ta thường đi đến những quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính, và chủ quan. Bằng một văn phong đơn giản và dí dỏm, Gs Daniel Kahneman dìu dắt chúng ta qua những thí nghiệm mà ông và đồng nghiệp Amos Tversky đã thực hiện từ thập niên 1970, và kết quả của những thí nghiệm đó được tích tụ thành một cuốn sách rất uyên bác, nhưng cũng rất dễ hiểu và giải trí. 

Daniel Kahneman là người gốc Do Thái, ông tốt nghiệp tâm lí học từ Đại học Jerusalem (1954), và phục vụ trong quân đội Do Thái như là một chuyên gia tâm lí. Năm 1958 ông sang Mĩ học và tốt nghiệp tiến sĩ tâm lí học từ Đại học California, Berkeley (1958). Hiện nay ông là giáo sư tâm lí học thuộc Đại học Princeton. Năm 2002, ông được trao giải thưởng Nobel về kinh tế vì những phát kiến về lí thuyết viễn cảnh (Prospect Theory). Ông được xem là một nhà tâm lí học vĩ đại nhất trên thế giới còn sống. 

http://www.newyorker.com/online/blogs/books/84826253.jpg
Gs Daniel Kahneman

Người viết bài này “làm quen” với những công trình nghiên cứu của Kahneman và Tversky từ đầu thập niên 2000. Lúc đó, tôi mới bắt đầu một dự án nghiên cứu về nguy cơ gãy xương theo nguyên lí cá nhân hoá điều trị (personalized medicine). Vấn đề được đặt ra là truyền đạt thông tin về nguy cơ đến bệnh nhân như thế nào để có hiệu quả nhất, và tại sao dù có nhiều thuốc điều trị loãng xương rất có hiệu quả và an toàn, nhưng bệnh nhân không chịu dùng thuốc. Những thí nghiệm cực kì sáng tạo và lí thú của Kahneman và Tversky đã soi sáng và cung cấp cho tôi rất nhiều câu trả lời. Đọc những gì Kahneman viết tôi thấy hình như ông biết rất nhiều về tôi! Đến năm 2002 thì Kahneman được trao giải Nobel về kinh tế học vì lí thuyết viễn cảnh. Còn Tversky thì qua đời trước đó vài năm (nếu còn sống, chắc chắn ông đã chia sẻ giải thưởng với Kahneman). Có thể nói cuốn sách này là một đúc kết những nghiên cứu đẳng cấp Nobel.

http://benatlas.com/wp-content/uploads/2009/05/amostversky.jpg
Amos Tversky 


Trong tác phẩm Nghĩ nhanh và nghĩ chậm, Kahneman mô tả hai cách thức (hay nói đúng hơn là hai hệ thống) mà não chúng ta vận hành. Ông gọi đó là hệ thống 1 hệ thống 2. Hệ thống 1, còn gọi là cơ chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuông, và tiềm thức. Hệ thống 2, còn gọi là cơ chế nghĩ chậm, đòi hỏi nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic, có tính toán, và ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lí mang tính tiền phong, Kahneman và Tversky chứng minh rằng con người chúng ta thường đi đến quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh hơn là nghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách chỉ để chỉ ra những sai lầm trong hệ thống 1. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những gì chúng ta tưởng: đó là chúng ta không biết những gì chúng ta không biết! 

Suy nghĩ nhanh, theo cách nói ví von của người Việt chúng ta, là trông mặt mà bắt hình dong. Tức là một cơ chế suy nghĩ dựa vào những tín hiệu sơ khởi, thay vì tính toán cẩn thận và suy đoán dựa vào logic. Có thể liên tưởng về cơ chế suy nghĩ nhanh qua vài ví dụ cụ thể. Khi lái xe gắn máy trên đường đến một ngã tư, chúng ta có khi chỉ cần nhìn vào ánh mắt người lái xe đối diện để quyết định băng qua đường hay không. Trước thông tin rằng tỉ lệ mắc bệnh ung thư cao hơn ở vùng nông thôn hơn vùng thành thị, chúng ta có thể nghĩ ngay rằng vì dịch vụ y tế ở vùng nông thôn còn kém hơn vùng thành thị. Nhưng nếu có thông tin cho rằng ung thư vùng nông thôn thấp hơn vùng thành thị, có lẽ chúng ta nghĩ rằng cư dân nông thôn không sống trong môi trường ô nhiễm như cư dân thành thị, nên cư dân nông thôn có nguy cơ ung thư thấp hơn thành thị. Việc người dân di tản khỏi khu vực Sông Tranh II có lẽ là một quyết định theo cơ chế nghĩ nhanh. Chính cơ chế suy nghĩ nhanh này giúp cho con người tồn tại qua hàng triệu năm, dù trong thực tế cũng sai lầm rất nhiều. 

Những sai lầm trong cơ chế 1 được “chứng minh” qua hàng loạt thí nghiệm rất nổi tiếng. Có lẽ thí nghiệm nổi tiếng nhất là Vấn đề Linda. Trong thí nghiệm này, các đối tượng tham gia nghiên cứu được cung cấp thông tin về một phụ nữ tên là Linda (chỉ là nhân vật hư cấu), 31 tuổi, độc thân, tính tình thẳng thắn, rất thông minh, và thời còn là sinh triết, cô thường hay quan tâm đến những vấn đề kì thị chủng tộc và bất bình đẳng xã hội. Những người tham gia nghiên cứu được hỏi rằng Linda là:

(a)  một nhân viên phục vụ khách hàng ở ngân hàng (bank teller); hay
(b)  là một bank teller và đấu tranh cho nữ quyền (feminist).

Phần lớn (85%) người tham gia nghiên cứu chọn câu trả lời (b) là khả năng cao nhất. Nhưng câu trả lời đó vi phạm qui luật xác suất. Kahneman và Tversky gọi sai lầm này là nghịch lí liên hợp (Conjunction fallacy).

Nghịch lí tỉ suất nền (base rate fallacy). Trong một thí nghiệm khác, Kahneman và Tversky cho một nhóm bác sĩ có kinh nghiệm trên 15 năm về một vấn đề rất đơn giản như sau. Trong một cộng đồng có 1% nữ bị bệnh ung thư. Các nhà khoa học có một phương pháp xét nghiệm rất chính xác để phát hiện ung thư. Với phương pháp này đối với những người mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả dương tính 95%; đối với những người không mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả âm tính 80%. Nếu một phụ nữ trong cộng đồng đó đi xét nghiệm và có kết quả dương tính, khả năng mà phụ nữ đó mắc bệnh ung thư là bao nhiêu? Đại đa số các bác sĩ cho rằng khả năng mắc bệnh là 90%. Nhưng trả lời đó sai. Sai là vì bác sĩ (hay chúng ta nói chung) lẫn lộn giữa xác suất mắc bệnh nếu kết quả dương tính với xác suất có kết quả dương tính nếu cá nhân mắc bệnh. Kahneman gọi đây là nghịch lí tỉ suất nền, và hệ quả là nhiều bệnh nhân bị chẩn đoán sai, vì bác sĩ dùng cơ chế suy nghĩ nhanh. 

Trong một thí nghiệm nổi tiếng, Kahneman và Tversky cho các đối tượng chọn một trong 2 bao thư. Bao thư 1 có 200 USD một cách chắc chắn; và bao thư 2 đòi hỏi đối tượng phải tung một đồng xu, nếu mặt sấp xuất hiện thì được 400 USD, mặt ngửa thì không có đồng nào. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu lựa chọn thứ nhất (dù hai lựa chọn này thật ra có giá trị kì vọng y chang nhau)! Kết quả này cho thấy chúng ta thích sự chắc chắn. Xu hướng này dẫn Kahneman và Tversky phát triển lí thuyết viễn cảnh, và là một công trình được trao giải Nobel kinh tế năm 2002. 

Một thí nghiệm khác đặt đối tượng trong tình huống sau đây: một đại dịch sẽ giết chết 600 người nếu bạn không làm gì cả. Một vaccine đã được thử nghiệm sẽ có khả năng cứu 200 người một cách chắc chắn, nhưng sẽ thất bại cứu 400 người còn lại; hoặc dùng một vaccine chưa qua thử nghiệm có thể cứu sống 200 người và thất bại trong việc cứu 400 người khác. Kết quả thí nghiệm cho thấy 72% đối tượng chọn vaccine đã qua thử nghiệm. 

Một thí nghiệm cực kì độc đáo cho thấy chúng ta rất dễ bị chi phối bởi con số lớn. Đối tượng nghiên cứu được đưa cho 2 lựa chọn: (a) với phẫu thuật A, 90% sống sót; (b) với phẫu thuật B, 10% tử vong. Phần lớn đối tượng chọn phẫu thuật A. Một thí nghiệm tương tự, mà theo đó một nhóm đối tượng được cho biết rằng xác suất mà họ mắc bệnh là 1 trên 10, một nhóm khác được cho biết xác suất mắc bệnh là 100 trên 1000. Kết quả cho thấy nhóm thứ hai có xu hướng chấp nhận điều trị hơn nhóm 1, dù nguy cơ mắc bệnh hai nhóm y chang nhau! Kahneman và Tversky gọi đó là hiệu ứng khung (framing effect).
Chúng ta thường đánh giá vấn đề qua tham khảo vào kinh nghiệm nổi bật vào thời điểm gần nhất, chứ không phải xem xét đến toàn bộ quá trình theo thời gian. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một nhận xét của Nhạc sĩ Đức Huy rằng người ca sĩ có thể bắt đầu bài hát không đạt, nhưng khi đoạn cuối bài hát được diễn tả thành công thì khán giả sẽ xem đó là một trình diễn thành công. Kahneman xem đây là điểm mà chúng ta rất giống … chuột. 

Nếu một nhà khoa học rất giỏi về một lĩnh vực nào đó (như được trao giải Nobel y học), người ta thường giả định rằng nhà khoa học đó cũng am hiểu tất cả những vấn đề khác, dù nhà khoa học bản thân họ không nghĩ vậy. Điều này giải thích tại sao khi cần tranh thủ vận động một vấn đề xã hội nào đó, người ta thường tìm đến những ngôi sao điện ảnh, khoa học, thể thao, v.v. Kahneman gọi đó là hiệu ứng halo (halo effect) cũng là một cơ chế suy nghĩ theo hệ thống 1. 

Cuốn sách hay công trình nghiên cứu của Kahneman có nhiều ý nghĩa cho những nhà hoạch định chính sách. Bài học là khi ra chính sách hay những qui định có ảnh hưởng đến nhiều người trong cộng đồng, cần phải vận dụng chứng cứ một cách cẩn thận, chứ không nên cảm tính và bồng bột (theo hệ thống suy nghĩ nhanh) vì dễ dẫn đến sai lầm. Chúng ta còn nhớ vụ cấm buôn bán mắm tôm chỉ vì niềm tin rằng nhiều bệnh nhân tả từng ăn mắm tôm trước đó, và kết luận rằng mắm tôm là nguyên nhân gây dịch tả. Có thể xem đó là một suy nghĩ theo hệ thống 1. 

Không chỉ có ý nghĩa cho các nhà hoạch định chính sách, cuốn sách còn có ích cho những người hành pháp. Ý nghĩa từ những hiệu ứng Linda, hiệu ứng khung, nghịch lí tỉ suất nền, v.v. là không thể và không nên trông mặt mà bắt hình dong, hay chỉ dựa vào tín hiệu bề ngoài mà đi đến kết án hay kì thị một cá nhân. Có trường hợp người ta lí giải rằng 60% những ca tội phạm thiếu niên là xuất phát từ những gia đình li dị hay đổ vỡ, và đi đến kết luận rằng li dị là một nguyên nhân hay nguồn gốc của tội phạm thiếu niên. Nhưng kết luận đó không logic và rất có thể sai. Đó cũng là một nguỵ biện rất phổ biến (prosecutor fallacy). Nguỵ biện xảy ra là vì người ta lười biếng suy nghĩ, và vì lười biếng suy nghĩ nên người ta chỉ sử dụng hệ thống 1 (mà không sử dụng hệ thống 2). 

Ngày nay, ra nhà sách, chúng ta dễ thấy khá nhiều sách về hành vi con người. Nhiều sách hay với những ví dụ rất sống động kèm theo những thí nghiệm được xem là tiền phong, rồi lí giải đòi thay đổi chính sách, luật pháp, và cách kinh doanh. Nhưng cuốn Nghĩ nhanh, nghĩ chậm thì khác. Đây là cuốn sách chỉ tập trung vào khoa học, với những trải nghiệm cá nhân của tác giả. Mục tiêu của cuốn sách, như Kahneman viết, là “làm giàu ngữ vựng cho mọi người” khi đi đến một quyết định trong cuộc sống. Tác giả còn viết rằng ông kì vọng cuốn sách sẽ giúp ích cho độc giả trong những câu chuyện phiếm và trao đổi – hay nói theo Nguyễn Du là mua vui cũng được một vài trống canh. Tôi nghĩ tác giả đã đạt hơn cái mục tiêu khiêm tốn đó. Đây là một cuốn sách mà bất cứ ai đọc cũng sẽ thấy hào hứng ngay từ chương đầu, và kết thúc với sự sảng khoái, làm cho chúng ta hiểu về chúng ta nhiều hơn. Một cuốn sách như thế nên được dịch sang tiếng Việt và có mặt trên giá sách của những ai quan tâm đến hành vi và kinh tế.

Chú thích: 

(*) “Thinking, fast and slow” (499 trang) của Daniel Kanehman, Nhà xuất bản Farrar, Straus, and Giroux, 2011. Sách có bán trên Amazon.com.
Read more ...