Pages

Đôi lời cám ơn và chúc ngày Giáng sinh

Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Hôm nay đã là ngày 24/12, tức là ngày “tiền Noel”. Nhân lúc rảnh rổi vài giờ nên tôi mới có vài dòng cám ơn và chúc mừng ngày Giáng sinh đến các bạn gần xa …

Trước hết là cám ơn các bạn đã giúp đỡ cho trang web này hồi sinh. Có lẽ các bạn đã để ý thấy trong vài ngày gần đầy trang web này rất bấp bênh, lúc thì bị đóng cửa, lúc thì bị “suspended”, lúc thì “on” trở lại, v.v. Tất cả chỉ vì bị tấn công DdoS gì đó, và chúng tôi (thực ra là chỉ có một hai người chứ không có tôi) chống đỡ bằng đủ mọi cách, và trang web vẫn bị tấn công nặng nề. Đến khi một bạn đọc bên Đài Loan nhiệt tình trao đổi, và sau cùng thì có “quới nhân” xuất hiện từ Hà Nội có biện pháp chống đỡ hữu hiệu, và thế là trang web này hồi sinh. Do đó, tôi phải nhân dịp này gửi lời cám ơn đến bạn ấy và các bạn trong nhà mà có lẽ tôi không cần nêu tên ở đây. Chỉ hứa rằng khi gặp nhau sẽ thiết đãi một bữa để gọi là tạ ơn. Thành thật cám ơn các bạn.
Kế đến, tôi muốn có vài dòng cám ơn các học viên và các bạn tôi đã tiếp xúc trong gần 10 ngày qua. Thế làworkshop về phương pháp định lượng trong khoa học xã hội đã kết thúc chiều hôm qua (23/12). Một workshop làm vào dịp cuối năm với bao nhiêu công việc bề bộn mà có đến 120 người tham dự suốt 5 ngày liền, từ sáng đến chiều, làm việc nghiêm túc, làm tôi cảm động. Như tôi nói theo kiểu nói của người Úc, các bạn là truth believers. Trong suốt 5 ngày đó, các bạn học viên đã tìm hiểu về những khái niệm khoa học, kĩ năng thiết kế nghiên cứu, kĩ năng phân tích và báo cáo có thể ứng dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội. Hi vọng rằng các bạn đã tiếp cận và học hỏi vài điều quan trọng từ workshop này. Sự hiện diện suốt 5 ngày của các bạn cũng là niềm khích lệ cho cá nhân tôi và ban tổ chức. Do đó, nhân dịp cuối năm và Giáng sinh, tôi muốn bày tỏ cám ơn đến các bạn đã đến tham dự và có nhiều ý kiến hào hứng.
Tôi cũng cám ơn lãnh đạo Đại học Quốc gia TPHCM đã ủng hộ và yểm trợ tinh thần, cám ơn Trung tâm Đào tạo nguồn nhân lực (chrd.edu.v) đã tổ chức workshop một cách chuyên nghiệp và quá hiếu khách với tôi. Tôi cũng không quên cám ơn Bs Trần Quý Phi đã giúp đỡ rất nhiệt tình trong lớp học qua những bài giảng, Bs Hà Tấn Đức và Lê Minh Thuận đã quá nhiệt tình giúp đỡ các học viên khác trong việc sử dụng R và đóng vai trò “teaching assistant”. Không có các bạn chắc gì một mình tôi có thể đảm nhiệm workshop này, nên nói lời cám ơn chắc cũng thừa, nhưng phải nói ra ở đây.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi thực hiện một workshop qui mô cho các bạn bên khoa học xã hội, nên chúng tôi cũng chỉ là những người đang học hỏi. Chắc chắn trong workshop ngoài vài trục trặc nhỏ về kĩ thuật (ngoài khả năng tiên lượng của chúng tôi), còn có những lúng túng về chia lớp, phân nhóm, v.v. là do chúng tôi chưa có kinh nghiệm với học viên. Chúng ta có câu “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, và trong workshop này có một số bài giảng vẫn chưa thực hiện được, đơn giản chỉ vì không đủ thì giờ, và điều này thì tôi đã tiên đoán trước và nói trước, nên hi vọng các bạn thông cảm cho. Tuy nhiên, những tài liệu tham khảo, tài liệu đọc thêm, và cuốn sách mới in của tôi mà các bạn có trong tay có thể bổ sung cho những gì chưa nói hết.   Hi vọng sẽ tái ngộ các bạn nay mai và chương trình sẽ còn nhiều hứa hẹn và phong phú hơn nữa.
Chuyến về quê lần này mang tiếng là dự hội nghị nhưng thật ra tôi thấy mình may mắn vì đã làm quen được với nhiều bạn. Từ lúc đáp xuống máy bay cho đến nay tính ra tôi đã nói liên tục 9 ngày liền! Hai ngày trong hội thảo “Khoa học Xã hội thời hội nhập”, 2 ngày trong chương trình CME của bệnh viện Tai Mũi Họng (TMH) và sanofi aventis, và 5 ngày trong workshop. May phước cho đến nay tôi vẫn còn “sống sót”, dù tôi nghĩ chắc vài ngày nữa sẽ trở thành bệnh nhân của một bác sĩ TMH! Trong 9 ngày đó, tôi đã có dịp quen với nhiều bạn mới và gặp lại vài bạn cũ, rất nhiều câu chuyện vui bên lề, nhưng cũng mở ra cơ hội hợp tác với các bạn mới về lĩnh vực mà tôi hiện đang quan tâm là mối liên hệ giữa cơ và xương (muscle – bone) và thành phần cơ thể (body composition). Hi vọng rằng năm tới sẽ có thêm vài bài báo khoa học về đề tài này từ Việt Nam.
Xin nói thêm rằng từ thứ Hai đến thứ Sáu tuần tới, tôi còn giảng trong workshop về Phương pháp Bayes tại Đại học Bách Khoa. Đây là workshop mang tính “kĩ thuật” một chút, nhằm giới thiệu các tiến bộ mới trong khoa học thống kê đến các bạn nào quan tâm đến việc ứng dụng chúng trong nghiên cứu khoa học. Workshop này sẽ được tổ chức theo mô hình một loạt seminars gồm khoảng 10 bài giảng về phương pháp bootstrap, meta-analysis, và Bayesian analysis. Cũng sẽ có bài giảng về R và WinBUGS. Chi tiết workshop có thể xem qua ở đây:
À quên, tôi cũng xin báo tin cùng các bạn là cuốn sách Đi vào nghiên cứu khoa học của tôi đã được Nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM phát hành. Đây là cuốn sách tôi dành nhiều tâm huyết, và có những bài mà tôi nghĩ rất có ích cho các bạn nào quan tâm đến nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn như có chương bàn về thế nào là một câu hỏi nghiên cứu tốt, hay như chương viết về cách trình bày powerpoint mà tôi đã giảng trong workshop trước đây. Tôi tin rằng các bạn sẽ tìm thấy nhiều thông tin có ích trong sách. Chỉ mới phát hành một tuần nhưng nhà sách đã bán được khá nhiều, cũng nhờ sự quan tâm của các bạn học viên và các đại học và trung tâm nghiên cứu. Có thể mua sách thẳng từ nhà xuất bản ở 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Đa Kao, Q1. Các bạn có thể ghé thăm sách ở đây:
Lan man như thế tưởng cũng đã đủ, và bây giờ một lần nữa tôi xin nói lời cám ơn tất cả các bạn. Mến chúc các bạn một mùa Giáng sinh vui vẻ, hạnh phúc, và một năm mới an lành và nhiều may mắn.
http://kenhtuyensinh.vn/images/news/2011/12/22-12-2011/best_wishes.jpg
NVT
Read more ...

Xếp hạng các trường ĐH ra sao?

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2011

http://www.scholarshipforusa.com/wp-content/uploads/2010/09/college-rankings.gifCách đây vài ngày, tôi có hân hạnh tiếp chuyện cùng phóng viên của báo Sinh Viên Việt Nam (svvn.vn) về một câu chuyện rất thời sự: xếp hạng đại học.  Thật ra, đây cũng là vấn đề tôi quan tâm, và cũng đã trình bày quan điểm mình trong cuốn sách Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội nhập (in vào tháng 8 và đang tái bản). Nhưng có lẽ đây là cuộc trò chuyện đầy đủ nhất về đề tài này mà tôi có với một phóng viên báo chí. Cũng có thể nói rằng rất hiếm thấy một phóng viên nào phỏng vấn một cách tường tận và chuyên nghiệp như phóng viên bài này (nói thật nhé, chứ không phải ngoại giao). Tôi chỉ mong một ngày nào đó tôi sẽ có dịp ứng dụng những phương pháp tôi đang ấp ủ (và trình bày sơ qua trong bài này) để xếp hạng đại học, nhưng chắc ngày đó còn xa lắm :-). Xin giới thiệu cùng các bạn quan tâm. NVT


Xếp hạng các trường ĐH ra sao?

(SVVN) Bộ GD - ĐT dự kiến tiến hành xếp hạng các trường đại học trong cả nước. Nhưng cách phân hạng thế nào là khoa học và phù hợp với bối cảnh của nền giáo dục đại học Việt Nam? Sinh Viên Việt Nam có cuộc trò chuyện với GS. TS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales (Australia), người dành nhiều thời gian nghiên cứu vấn đề này.

Vì sao cần bảng xếp hạng?
Thưa Giáo sư, nhìn vào bức tranh của nền giáo dục đại học của ta hiện nay, ông có nghĩ là chúng ta cần có một cuộc sắp xếp thứ hạng các trường đại học trong cả nước?
Tôi nghĩ, nên có một hay vài bảng xếp hạng đại học ở nước ta. Mục tiêu của các bảng xếp hạng đại học là giúp cho học sinh, sinh viên và phụ huynh có những thông tin tương đối khách quan để chọn trường học cho từng ngành nghề cụ thể. Giáo dục đại học tuy không phải là một thị trường (hiểu theo nghĩa buôn bán hàng hóa), nhưng trong thực tế, nó cũng là một thị trường dịch vụ (hiểu theo nghĩa có người cung cấp và người tiếp nhận dịch vụ) và sinh viên có thể lựa chọn. Đã có lựa chọn thì phải có tiêu chí và tiêu chuẩn, do đó, các bảng xếp hạng đại học là cần thiết. Hiện nay, Việt Nam đã có trên 300 trường đại học (con số vẫn còn gia tăng), người dân có quyền đặt câu hỏi, trường đại học nào tốt trong lĩnh vực nào. Bảng xếp hạng đại học sẽ trả lời câu hỏi cấp thiết đó cho học sinh, sinh viên và phụ huynh.
Các bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới cũng khá đa dạng. Vì sao có việc này, thưa Giáo sư?
Đúng là các bảng xếp hạng đại học rất đa dạng và có khi cũng rất khó diễn giải. Vấn đề xuất phát từ tầm nhìn và phương pháp của nhóm xếp hạng.  Có nhóm như ĐH Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc) thì quan tâm đến nghiên cứu khoa học, nên tiêu chí xếp hạng của họ đặt nặng vào công bố quốc tế và các giải thưởng lớn như giải Nobel và Fields, hay những công trình nghiên cứu công bố trên các tập san danh tiếng như Nature và Science, nhưng cũng có nhóm thì cho rằng, “danh tiếng” là cái gì - phải được đánh giá của những người trong ngành giáo dục, nên tiêu chí này được đặt vào trọng tâm.
Kế đến là vấn đề phương pháp, do mỗi nhóm sử dụng một phương pháp độc lập, nên kết quả xếp hạng có khi rất khác nhau. Ngay cả sử dụng cùng một phương pháp nhưng có khi trọng số khác nhau nên kết quả cũng rất khác nhau. Nói chung, chúng ta không biết chính xác phương pháp xếp hạng của họ ra sao, nhưng tôi biết rằng, họ sử dụng các thuật toán thống kê để ước tính các trọng số (dựa vào mô hình nào đó) và trọng số thì tuỳ thuộc vào cỡ mẫu đại học, nhưng mẫu nghiên cứu thì rất khác nhau giữa các nhóm, nên kết quả xếp hạng khác nhau giữa các nhóm là điều có thể hiểu được.
Về mặt cá nhân, ông đánh giá cao bảng xếp hạng nào nhất? Vì sao?
Tôi không đánh giá cao các bảng xếp hạng đại học vì tôi nghi ngờ phương pháp xếp hạng của họ. Tuy nhiên, xét về phương diện khoa học và phương pháp, tôi đánh giá cao cách làm của nhóm bên Hà Lan và MacLean (Canada).
Có người nói rằng, những danh sách xếp hạng đại học của thế giới chủ yếu phục vụ cho mục tiêu thương mại, chứ không phải khoa học. Giáo sư có đồng ý với điều này?
Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng có lý do để các bảng xếp hạng phải tồn tại. Như nói trên, các bảng xếp hạng này phục vụ cho mục tiêu chọn trường. Nhưng trong môi trường cạnh tranh giữa các đại học, mỗi đại học phải tự mình đánh giá chất lượng, nếu không, sẽ có người khác đánh giá. Các bảng xếp hạng này ra đời là nhằm đáp ứng mục tiêu đánh giá đó. Tôi không thấy có lý do khoa học nào trong việc xếp hạng đại học cả.
Theo ông, để xếp hạng một đại học, tiêu chí nào là quan trọng nhất? Và vì sao?
Tiêu chí nào quan trọng còn tùy vào mục tiêu của đại học. Trong điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam, sứ mệnh của phần lớn đại học chủ yếu là đào tạo, thì các tiêu chí đào tạo phải đặt lên hàng đầu. Đối với các nước tiên tiến như Mỹ, châu âu và một số nước châu Á (như Nhật, Hàn Quốc) thì một số đại học có sứ mệnh chính là nghiên cứu khoa học và do đó, tiêu chí nghiên cứu khoa học phải đặt lên hàng đầu. Nhưng các nhóm xếp hạng đại học ít quan tâm đến sự khác biệt giữa hai sứ mệnh, mà họ chỉ có những tiêu chí và trọng số cho tiêu chí chung. Theo tôi, đã là “đại học” thì cần phải có sứ mệnh theo tinh thần Humboldt (mô hình đại học đề cao tự do học thuật - PV) và do đó, tiêu chí nghiên cứu khoa học phải tương đương hoặc cao hơn so với với tiêu chí đào tạo.
Tại sao một trong những tiêu chí thường được các tổ chức bình xét lựa chọn, đó là tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm? Theo ông, các đại học của Việt Nam có thể tính đến yếu tố này?
Yếu tố này cũng quan trọng vì nó nói lên nhiều điều, kể cả chất lượng đào tạo và sự tương tác giữa trường đại học và kỹ nghệ. Các chương trình đào tạo có chất lượng thường giúp sinh viên tốt nghiệp dễ tìm việc làm hơn các chương trình đào tạo không bám sát vào nhu cầu kinh tế và công nghệ.  Đại học không thể tồn tại như một ốc đảo mà cần phải tương tác với xã hội, do đó, một số trường có chương trình cho sinh viên đi thực tập ở các công ty trước khi ra trường (giống như bên y khoa, sinh viên phải thực tập trước khi ra trường) và việc này tạo điều kiện cũng như nâng cao khả năng tìm việc cho cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Ở Việt Nam, đây là vấn đề khó, vì hình như nhiều chương trình đào tạo không theo sát nhu cầu xã hội, cho nên hơn phân nửa sinh viên ra trường phải được đào tạo lại về chuyên môn. Vấn đề ở Việt Nam là các trường đại học không có những khảo sát thường xuyên để biết bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp có thể tìm được việc làm và thời gian từ lúc tốt nghiệp đến lúc tìm được việc là bao lâu. Khó khăn thì có đấy, nhưng không phải là không làm được.
Để Việt Nam có một bảng xếp hạng tốt
Bộ GD - ĐT cho rằng, cần có phân hạng để học sinh có thể chọn được trường nào tốt, trường nào chưa tốt; doanh nghiệp sẽ biết được trường nào đào tạo ổn, trường nào thì chưa... Giáo sư có ý kiến gì về điều này?
Tôi không rõ khái niệm “phân hạng” này dựa vào nguyên lý nào, và cũng không biết rõ ý định của Bộ GD - ĐT. Do đó, tôi không có ý kiến gì. Nhưng tôi thấy không nên phân nhóm với hàm ý nói trường A tốt hơn trường B, mà không dựa trên cơ sở khoa học nào.  Làm như thế là một cách gán nhãn hiệu, hay ví von hơn là ra một “chẩn đoán” cho trường, mà mỗi chẩn đoán hay mỗi nhãn hiệu có khi là một bản án!
Ở Australia, các trường đại học cũng tự hình thành nhóm. Chẳng hạn như nhóm G8, gồm 8 trường đại học lâu đời và chuyên về nghiên cứu, còn các đại học khác cũng tự hình thành từng nhóm để tranh thủ ngân sách và ủng hộ của công chúng. Họ tự phân nhóm chứ không phải Nhà nước làm, và mục tiêu không phải là để ra tín hiệu cho doanh nghiệp, mà là để kiểm soát nguồn tài trợ cho nghiên cứu và đào tạo.
Theo Giáo sư, để Việt Nam có một bảng xếp hạng các trường đại học, thì cách làm thế nào sẽ là hợp lý?
Đây là vấn đề khó khăn, vì đòi hỏi phải thống nhất về phương pháp.  Nhưng phương pháp là vấn đề có thể giải quyết được. Theo tôi, cách tiếp cận phải qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1 là làm nghiên cứu, thu thập dữ liệu liên quan đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Từ nghiên cứu có thể dùng các mô hình thống kê để ước tính trọng số cho mỗi tiêu chí và từ đó hình thành một mô hình xếp hạng.
Giai đoạn 2 là kiểm tra mô hình xếp hạng cho các đại học, xem độ chính xác và tin cậy của mô hình này ra sao. Nếu các tiêu chuẩn về phương pháp và mô hình được đáp ứng, thì giai đoạn 3 là triển khai và xếp hạng. Thật ra, cách tiếp cận này cũng là một cách làm khoa học nhất. Nhưng cách tiếp cận này đòi hỏi người làm phải am hiểu phương pháp nghiên cứu và phân tích dữ liệu.
Việc xếp hạng do Bộ GD - ĐT đứng ra làm có hợp lý?
Theo tôi, Bộ GD - ĐT không nên đứng ra làm xếp hạng, mà phải ủy nhiệm cho một trung tâm độc lập làm. Trung tâm này phải quy tụ những chuyên gia có kinh nghiệm về giáo dục đại học, các chuyên gia về phân tích định lượng trong giáo dục và cần phải có đại diện của Nhà nước, doanh nghiệp và nghiên cứu sinh. Trên thế giới, theo tôi biết, không có Bộ Giáo dục nào đứng ra làm việc xếp hạng đại học cả vì làm như thế thì chẳng khác gì vừa đá bóng vừa thổi còi. Tốt hơn hết là Bộ nên ủy nhiệm cho một hội đoàn chuyên môn nghiên cứu và đánh giá đại học, nhưng hội đoàn này phải làm đúng quy trình và có kinh nghiệm trong phương pháp định lượng.
Theo Giáo sư, yếu tố then chốt để có một bảng xếp hạng phản ánh đúng thực chất thể trạng của từng trường ở ta, là gì? Năng lực của ta thế nào trong việc có được “yếu tố then chốt” đó?
Yếu tố then chốt và quan trọng nhất trong xếp hạng là phương pháp luận. Không thể nào làm xếp hạng một cách đơn giản được, bởi vì giáo dục đại học là một hệ thống rất phức tạp. Phương pháp xếp hạng phải đáp ứng được tính phức tạp đó. Trên thế giới, người ta cũng làm những bảng xếp hạng bệnh viện và kinh nghiệm cho thấy cần phải nghiên cứu hết sức cẩn thận trước khi ra bảng xếp hạng. Trong quá trình nghiên cứu, khoa học thống kê đóng vai trò số 1 vì chỉ có mô hình thống kê mới có thể cho ra những trọng số đáng tin cậy và khách quan nhất.
Từng có lúc rộ lên chuyện Việt Nam muốn có đại diện đứng trong top 200 trường đại học hàng đầu thế giới. Theo Giáo sư, chuyện này có thể trở thành hiện thực không và bằng cách nào?
Theo tôi thì Việt Nam ta khó có thể có một đại học trong danh sách “top 200”, hay thậm chí “top 500”.  Nghiên cứu khoa học ở các đại học lớn nước ta còn quá ư khiêm tốn cả về số lượng lẫn chất lượng. Mỗi năm, cả nước chỉ công bố được khoảng 1.000 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, mà những bài báo này nói chung có chất lượng thấp. Nghiên cứu công bố ở trong nước thì chất lượng còn có nhiều vấn đề hơn. Chúng ta còn thiếu những nhà khoa học thật sự có tiếng tầm thế giới (hiểu theo nghĩa gây ảnh hưởng quan trọng), chứ chưa nói đến nhà khoa học đoạt giải Nobel. Chất lượng đào tạo thì chưa cao như báo chí đã phản ảnh nhiều lần. Chỉ với hai tiêu chuẩn đó, đại học Việt Nam còn rất xa mới đạt được đẳng cấp “top 200”.
Muốn trở thành đại học đẳng cấp “top 200”, tôi nghĩ, có nhiều việc cần phải làm, nhưng trước mắt thì phải nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học và chất lượng đào tạo. Thứ nhất là phải đầu tư cho nghiên cứu khoa học tiên tiến, chứ không phải những nghiên cứu “làng nhàng”. Thứ hai là phải nâng cao trình độ của giảng viên và giáo sư. Hiện nay, chỉ có 15% giảng viên đại học có bằng tiến sĩ (trong khi đó ở các đại học đẳng cấp quốc tế thì tỉ lệ này là 80 thậm chí 90%). Thứ ba, là phải tuyển dụng các giáo sư và nhà khoa học nổi tiếng từ nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở đại học Việt Nam. Thứ tư là phải rà soát lại các chương trình đào tạo đúng với chuẩn mực quốc tế.  Với tình hình hiện nay, tôi nghĩ rất khó thực hiện 4 việc làm trên vì định chế và cơ chế quản lý giáo dục đại học ở Việt Nam còn là một “hàng rào” cản trở phát triển.

Lê Ngọc Sơn
Nhìn qua nhiều đại học ở Việt Nam, kể cả đại học lớn nhất, người ngoài có thể cảm nhận đó là trường trung học cấp 4, chứ không phải đại học đúng nghĩa. Một đại học đúng nghĩa ngoài nghiên cứu khoa học và chương trình đào tạo, còn là một môi trường trí thức, giáo sư và sinh viên tự do tranh luận về các vấn đề quốc gia và quốc tế, có sinh hoạt học thuật tích cực. Đó là những điểm mà các đại học Việt Nam còn thiếu hay chưa có”.(GS. TS Nguyễn Văn Tuấn)

Read more ...

Giới thiệu sách mới “Đi vào nghiên cứu khoa học”

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011
http://www.flascience.org/art/icondna.jpgXin hân hạnh cuốn sách mới nhất của tôi do Nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM ấn hành vào hôm thứ Bảy vừa qua. Đây là cuốn sách bàn về những vấn đề thiết thực trong nghiên cứu khoa học mà có lẽ bất cứ ai đang quan tâm đến khoa học, nhất là sinh viên và nghiên cứu sinh, đều có thể tìm thấy vài điều có ích.

Đây là cuốn sách thứ 9 của tôi đã in ở Việt Nam. Cuốn trước bàn về chất lượng giáo dục (sắp tái bản), nhưng cuốn này bàn về làm khoa học.  Đối tượng chính của cuốn sách này là các bạn sinh viên và nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng có thể tìm thấy trong sách nhiều thông tin đáng quan tâm, như làm thế nào để đánh giá một câu hỏi nghiên cứu (research question), thế nào là bài báo khoa học, làm thể nào để thành công trong khoa học, cách viết bài báo khoa học, cách trình bày báo cáo trong hội thảo quốc tế, v.v.Những chủ đề này được sằp xếp thành 2 chủ đề: khoa học & đạo đức khoa học, và công bố quốc tế.  Đây là hai chủ đề cũng đang rất "thời sự" ở nước ta.
Xin nói thêm rằng đây là cuốn sách do Thời báo Kinh tế Sài Gòn biên tập (nằm trong Tủ sách Kiến Thức), và Nhà xuất bản Tổng Hợp ấn hành. Nhân dịp này tôi muốn có lời cám ơn chân thành đến anh Nguyễn Công Thắng (Thời báo Kinh tế Sài Gòn) đã dành thời gian biên tập cuốn sách. Tôi cũng cám ơn chị Thanh Hương và Nhà xuất bản Tổng Hợp đã nhiệt tình ủng hộ để cuốn sách đến tay các bạn đọc vào dịp cuối năm, và các học viên trong workshop về phương pháp định lượng trong khoa học xã hội.  Các bạn có thể xem đây là món quà đầu Tết của tôi đến các bạn vậy.
Sách chỉ 305 trang, được in theo khổ 13 x 19 cm, với giá bán lẻ là 65,000 đồng. Các bạn có thể mua sách trực tiếp tại Nhà xuất bản, số 62 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận I, số điện thoại 382 96764 hoặc 382 5713, website: www.nxbhcm.com.vn.
Xin mời các bạn ủng hộ!
Nguyễn Văn Tuấn
====
Lời giới thiệu
Ở kỷ nguyên tin học này, một em học sinh phổ thông ở nước ta cũng có thể nói được rằng khoa học là nền tảng của sự phát triển xã hội và nghiên cứu khoa học, do vậy, là hoạt động vô cùng quan trọng. Nhưng, thế nào là nghiên cứu khoa học, và đâu là “thước đo” trong nghiên cứu khoa học, hoặc thế nào là văn hóa khoa học… thì ngay cả nhiều người có học vị cao ở bậc đại học cũng không trả lời ổn thỏa.
Không chỉ đối với những vấn đề mang tính khái quát như vậy mà cả với những câu hỏi cụ thể như: làm sao để viết một bài báo khoa học, trích dẫn tài liệu phải theo cách thức nào, vì sao phải công bố rộng rãi một công trình nghiên cứu, hoặc thế nào là đạo văn, “đạo số liệu”… cũng khó tìm được câu trả lời rành mạch, đúng đắn.
Trong khi đó, thực tế lại đang diễn ra tình trạng rất đáng buốn, đáng lo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, từ chuyện “làm khoa học” bằng cách… đạo văn, điều tra cẩu thả, không đúng phương pháp, thậm chí có nhưng cơ quan quản lý đưa ra nhiều quy định hành chính gọi là dựa trên “cơ sở khoa học” mà thật ra chẳng khoa học tí nào!
Có lẽ nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là văn hóa khoa học nước ta chưa được như các nước tiên tiến, trong đó có phần do lâu nay chúng ta thiếu các chương trình giảng dạy, sách báo, tài liệu hướng dẫn, giải thích về bản chất cũng như cách thức tiến hành nghiên cứu khoa học. Như vậy, để có thể nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học, gia tăng sự hiện diện của khoa học VN trên trường quốc tế, rõ ràng cần phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu khoa học, mở rộng tầm hiểu biết chung về phương pháp nghiên cứu khoa học.
Với mong mỏi được đóng góp một phần nhỏ trong công việc ấy, từ nhiều năm qua, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, hiện công tác tại Viện nghiên cứu Y khoa Garvan – Úc, đã viết nhiều bài đăng trên các tờ báo trong nước như: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tuổi Trẻ, Tia Sáng, Thanh Niên, VietNam Net… liên quan đến nghiên cứu khoa học, trên cơ sở cung cấp các kiến thức cũng như những kinh nghiệm làm nghiên cứu khoa học trong nhiều năm của tác giả.
Cuốn sách này ra đời trên cơ sở tập hợp những bài viết về hai nội dung chính: nghiên cứu khoa học và việc công bố kết quả nghiên cứu khoa học. Trong phần đầu, tác giả cố gắng làm rõ các khái niệm cốt yếu như “hoạt động nghiên cứu khoa học”, “cơ sở khoa học”, cách xác định đề tài nghiên cứu, vấn đề đạo đức khoa học, văn hóa khoa học… Về phương diện công bố kết quả nghiên cứu khoa học, tác giả chủ yếu tập trung vào hình thức bài báo khoa học đăng trên tập san quốc tế. Do khuôn khổ có giới hạn của bài viết đăng trên báo đại chúng cho nên tác giả thường đề cập đến các vấn đề một cách tổng quát, căn bản, và mặt khác, vốn là nhà nghiên cứu trong lĩnh vực y sinh học cho nên khi khai triển vấn đề cũng như khi đưa ra dẫn chứng, tác giả thường dựa nhiều vào các nghiên cứu ngành y sinh học. Tuy vậy, những yêu cầu cơ bản, những nội dung thiết yếu trong nghiên cứu khoa học nói chung và cách thức công bố kết quả nghiên cứu khoa học đều được tác giả trình bày một cách rõ ràng, có hệ thống theo các chuẩn mực quốc tế bằng một văn phong sáng sủa, dễ hiểu, lập luận chặt chẽ, dẫn liệu phong phú, đáng tin cậy. Xét về phương diện phổ biến kiến thức thì đó chính là những ưu điểm của tác giả.
Trong thực tế, hoạt động nghiên cứu khoa học vốn đa dạng, phức tạp, và có sự khác biệt nhất định giữa nghiên cứu trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Việc công bố kết quả nghiên cứu khoa học cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác như: luận văn, sách biên khảo, công trình điền dã, điều tra xã hội học… Nói chung, còn nhiều nội dung cần được đề cập cặn kẽ, đầy đủ hơn nữa, và để có thể chuyển đạt đầy đủ những nội dung đó hẳn sẽ cần đến nhiều cuốn sách, tài liệu hướng dẫn khác trong tương lai. Thiết nghĩ, đó là công việc chung của giới khoa học nước ta.
Riêng với cuốn sách này, hy vọng nó sẽ giúp ích cho những người mới bước vào nghiên cứu khoa học, đặc biệt là với các bạn sinh viên, qua việc cung cấp những thông tin, những kiến thức phổ thông, cần phải có để làm hành trang trên con đường nghiên cứu khoa học – con đường vốn không ít cam go, thử thách mà cũng rất đáng tự hào.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này cùng quý độc giả.
 
Saigon Times Books

====
 
Mục lục
 
Lời nói đầu
I. Về Khoa học và đạo đức khoa học
1. Thế nào là nghiên cứu khoa học
2. Cách đặt câu hỏi nghiên cứu
3. Thế nào là cơ sở khoa học
4. Văn hóa khoa học
5. Đạo đức khoa học
6. Gian lận và vi phạm đạo đức trong khoa học
7. Đạo văn trong hoạt động khoa học
8. Một trường hợp gian lận khoa học tại Úc và những bài học
II. Về Công bố quốc tế
9. Thế nào là một bài báo khoa học
10. Cách viết báo cáo khoa học cho các tập san khoa học quốc tế
11. Tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học
12. Vấn đề tác giả bài báo khoa học
13. Tám lý do cho công bố quốc tế
14. Tại sao bài báo khoa học bị từ chối?
15. Kỹ năng mềm cho nhà khoa học
16. Kĩ năng trình bày báo cáo trong hội nghị khoa học
17. Làm cách nào để thành công trong khoa học
18. Làm cách nào để thành công trong khoa học thật
Thay cho lời bạt: Khoa học Việt Nam: nhu cầu đổi mới tư duy
Read more ...

Hội thảo “Khoa học xã hội thời hội nhập”

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2011
Thế là Hội thảo “Khoa học xã hội thời hội nhập” đã kết thúc có thể nói là tốt đẹp.  Hội thảo diễn ra trong 2 ngày 15/12 và 16/12. Ngày đầu là chương trình chính, ngày thứ hai là workshop và tham quan (tôi không đi tham quan, vì phải lo làm workshop).  Tôi có cơ hội quen biết với nhiều bạn bè, nên muốn ghi lại đây vài dòng nhật kí.


Hội thảo được khai mạc rất hoàng tráng tạ hội trường của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.  Đến tham dự phiên khai mạc có anh Phan Thanh Bình (GĐ Đại học Quốc gia TPHCM), ba giáo sư KHXH từ Trung Quốc (trong đó có một người từ ĐH Thanh Hoa), Gs Hồ Sỹ Quí (Hà Nội), Gs Ngô Văn Lệ (nguyên hiệu trưởng trường ĐH KHXH & NV), Gs Trần Văn Đoàn (Đại học Quốc gia Đài Loan), v.v. 

Đây là lần đầu tiên tôi tham dự hội nghị KHXH với tư cách là khách mời, nên học được rất nhiều điều hay ho và mới lạ.  Không giống như những hội nghị bên y khoa, trong hội nghị này có phiên khoáng đại và phiên chuyên đề. Phiên khoán đại có 5 bài giảng, và cứ mỗi bài giảng thì có một bài phản biện.  Mỗi bài giảng là 15 phút, và bài phản biện 5 phút.  Tôi được giao nhiệm vụ phản biện bài của Gs Trần Ngọc Thêm, và vì lần đầu tôi không biết làm sao, nên tôi soạn hẳn một bài bằng powerpoint slides để bình luận trong vòng 5 phút.  Có lẽ cách làm của tôi khác với mọi người khác, vì người ta chỉ đứng lên và nhận xét chứ không làm slides như tôi.  Tôi cũng được mời nói một bài (mà tôi đã trình bày trong một abstract).  Trong bài đó tôi có nói đến một con số rằn chỉ có <2% những bài báo của VN trên các tập san quốc tế có liên quan đến KHXH, trong khi đó trên 50% những bài báo trong nước thì liên quan đến KHXH.  Con số này có vẻ thu hút sự chú ý của báo chí, nên họ đăng nhiều chỗ (xem dưới đây 2 bài).  Thật ra, bài của tôi đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng về phương pháp nhưng báo chí có vẻ không thích những vấn đề đó; họ chỉ thích có cái gì làm bản tin.  Kể ra cũng là một kinh nghiệm báo chí thú vị!

Trong mỗi phiên chuyên đề, cũng có 2-3 báo cáo, nhưng không có phản biện mà chỉ có vấn đáp thông thường.  Tôi được vinh dạnh điều hành một phiên cùng với chị Kim Chuyên.  Trong phiên chuyên đề này, tôi gặp chị Từ Huy nói về bài giảng trong đại học rất thú vị và gây ra nhiều thảo luận nhất.  Đây là lần đầu tiên tôi gặp chị ấy dù đã đọc nhiều bài của chị ấy từ lâu, và lần gặp này để lại nhiều ấn tượng đẹp.  Đó là một người dân Huế, ăn nói năng nhẹ nhàng nhưng hàm chứa một sự dứt khoát không khoan nhượng, có kiến thức rộng, và có nhiều ý tưởng hay. 

Phiên chuyên đề này có nhiều ý tưởng và bình luận của nhiều người khác làm tôi … giật mình.  Chẳng hạn như có ý kiến của một giáo sư nói thẳng rằng VN chúng ta rất khó làm nghiên cứu KHXH, bởi vì đảng viên phải nói, làm và viết theo nghị quyết của Đảng, và thế thì làm sao có tư duy hay ý tưởng độc lập được.  Lại có ý kiến nói thẳng rằng VN chưa có một nền KHXH đúng nghĩa!  Tôi thì chỉ biết lắng nghe và theo dõi tranh luận.  

Trong hội thảo này tôi có dịp gặp các giáo sư Trung Quốc. Tôi thấy họ tham dự rất nghiêm túc, lắng nghe và ghi chép cẩn thận.  Họ rất lịch sự (chứ không thô lỗ như báo chí phản ảnh trong các hội nghị khác).  Họ không biết nói tiếng Anh, chẳng biết tiếng Việt, nên phải có một em nghiên cứu sinh Việt Nam làm phiên dịch.  Em này tên là Thơ, rất giỏi tiếng Hoa và tiếng Anh, nói tiếng Hoa mà tôi cứ tưởng em là … người Hoa!  Các giáo sư Trung Quốc tỏ ra ngạc nhiên là họ biết VN còn quá ít, vì khi qua hội thảo này họ mới biết VN có nhiều nét văn hoá khác với Tàu!  Có ý kiến nói về giả thuyết Kinh Dịch khởi nguồn từ phương Nam, và một ông giáo sư TQ là giám đốc trung tâm nghiên cứu Kinh Dịch nói rằng ông cũng biết giả thuyết đó và rất thú vị khi học thêm những dữ liệu và lí giải từ các nước khác, kể cả Việt Nam.  Họ còn nói rằng những vấn đề KHXH mà VN đang gặp phải hiện nay cũng chính là những gì Trung Quôc đã đương đầu 20 năm trước.  Tôi rất ấn tượng khi thấy họ phát biểu (bằng tiếng Hoa và qua thông dịch) rất “quốc tế”, rất ngoại giao và học thuật.  Thế mới biết không phải giáo sư TQ nào cũng thô lỗ như thấy trong các hội nghị về biển Đông. 

Nói tóm lại, tôi đã có một buổi “sinh hoạt” học thuật thú vị với tư cách và khách mời.  Điều làm tôi phấn chấn là có dịp chia sẻ những kinh nghiệm về phương pháp với các bạn nghiên cứu sinh trẻ.   Hi vọng rằng hội thảo sẽ còn tiếp tục trong tương lai để trở thành một diễn đàn về KHXH có uy tín ở Việt Nam.

NVT

===


Khoa học xã hội không phát triển được vì bảo thủ

“Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam còn khép kín, chưa thật sự phát triển, mang nặng tư tưởng tự kỷ, ỷ lại.

Trước các ý tưởng, lý thuyết của KHXH phương Tây, chúng ta thường ít đặt vấn đề nghiên cứu, trao đổi, tranh luận một cách nghiêm túc và khoa học. Chính chúng ta đã dựng nên một hàng rào về nhận thức, điều đó làm KHXH khó thể phát triển như một ngành khoa học thật sự”. PGS-TS Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM, đã nhận định như trên tại hội thảo khoa học quốc tế Khoa học xã hội thời hội nhập do ĐH Quốc gia TP.HCM tổ chức hôm qua (15-12) với sự tham dự của nhiều nhà khoa học Việt Nam, Úc, Trung Quốc và Đài Loan.
GS-TSKH Trần Ngọc Thêm, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo ĐH Quốc gia TP.HCM, chỉ ra rằng do KHXH có tính phổ biến nên rất hay bị coi thường, xem nhẹ tới mức bất công. Sự coi thường này dẫn đến nhiều hệ lụy, đó là tình trạng bình dân hóa, tầm thường hóa và chính trị hóa KHXH.
Nhiều nhà khoa học cho rằng chúng ta đang thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn cao và sự hạn chế về ngoại ngữ làm cho cán bộ giảng viên thiếu tự tin trong các hoạt động hợp tác quốc tế. GS-TS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales (Úc), dẫn chứng các nghiên cứu có giá trị về KHXH xuất hiện rất nhiều trên các tạp chí trong nước nhưng lại rất ít công bố trên các tạp chí quốc tế cũng là do trình độ tiếng Anh của các nhà nghiên cứu còn quá kém. Theo TS Nguyễn Hữu Nguyên - Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam, lực cản hội nhập của KHXH là do cơ chế áp đặt, bảo thủ, rất ít đề cập và tìm ra nguyên nhân của những sai lầm, cũng như ít sử dụng công cụ điều tra xã hội học và trưng cầu ý dân.
Để góp phần vực dậy KHXH, PGS-TS Phan Thanh Bình cho hay ĐH Quốc gia TP.HCM sẽ cố gắng tối đa để tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các ngành KHXH phát triển, khẳng định vai trò và trách nhiệm lớn lao của KHXH đối với đất nước và thế giới. Và để làm được điều này, các nhà khoa học cần nỗ lực học tập các phương pháp nghiên cứu tiên tiến của KHXH thế giới, vượt qua tính bảo thủ, sức ì của những quan điểm, thói quen cũ kỹ, thái độ giáo điều và tư tưởng ỷ lại.
Q.DŨNG



VN chỉ có 2% bài báo về khoa học xã hội trên tạp chí thế giới
16/12/2011 16:17

Tại hội thảo khoa học quốc tế “Khoa học xã hội thời hội nhập” diễn ra tại Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQG TP.HCM) ngày 15.12, GS-TS Nguyễn Văn Tuấn (Trường ĐH New South Wales, Úc) nói: “Một điều rất nghịch lý ở Việt Nam là các nghiên cứu về khoa học xã hội hiện diện trên các tạp chí trong nước rất nhiều nhưng lại xuất hiện rất ít trên các tạp chí khoa học quốc tế. Ví dụ, năm 2004 có tới 8.408 bài báo khoa học được đăng trên tạp chí và kỷ yếu trong nước thì có đến 4.345 bài về khoa học xã hội. Trong đó chỉ chưa tới 10 bài về khoa học xã hội được đăng trên tạp chí khoa học quốc tế. Thống kê giai đoạn 1996 - 2005 cho thấy, trong tổng số 3.456 bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tạp chí quốc tế thì chỉ có 69 bài (chiếm khoảng 2%) liên quan đến khoa học xã hội”.
Hà Ánh
Read more ...

Thông báo website nguyenvantuan.net tạm đóng cửa

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2011
Xin kính báo cùng các bạn website nguyenvantuan.net phải dừng trong một thời gian (chưa biết bao lâu), vì bị đánh nặng quá. 

Hiện nay nếu các bạn truy cập vào trang web sẽ có dòng chữ “This Account Has Been Suspended”.  Lí do là mỗi lần trang web mở ra thì bị tấn công, làm ảnh hưởng đến lưu lượng giao thông của server.  Quản lí server mới gửi một email báo cho biết như thế:  

Server is currently running under low and stable load but I suspect that it will start overloading as soon as account nguyenvantuan.net is unsuspended. Basically website nguyenvantuan.net is taking too much traffic and VPS doesn't have enough hardware resources to handle all those connections on Apache service. I suggest that you consider upgrading to stronger VPS plan or dedicated server to resolve this issue.”

Tạm thời tôi sẽ chuyển qua trang blog www.tuanvannguyen.blogspot.com.

NVT
Read more ...

Thắng lợi mới: Lá thư trên Science phản đối “bản đồ đường lưỡi bò”

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011
 http://www.bbc.co.uk/worldservice/assets/images/2009/05/13/090513085915_south_china-sea_bbc466.gifXin hân hạnh giới thiệu cùng các bạn một thành quả trong việc đấu tranh chống bản đồ đường lưỡi bò (ĐLB). Đây là lá thư của một nhóm nhà khoa học trong và ngoài nước, qua sự điều phối của Gs Phạm Quang Tuấn (anh "bạn già" của tôi), gửi cho Tập san Science để phản đối tập san này đã đăng bản đồ ĐLB. Tôi cũng có một lá thư cho Science, nhưng họ chưa chịu đăng. Trước mắt xin giới thiệu lá thư của anh Phạm Quang Tuấn và bản (tạm) dịch của tôi.

Câu chuyện bắt đầu từ bài tổng quan về dân số và địa lí của X. Peng đăng trên Science vào ngàu 29/7/2011. Trong bài báo đó có in bản đồ của Trung Quốc và chèn vào bản đồ ĐLB. Tập san Science là loại tập san khoa học rất danh tiếng, có lẽ chỉ đứng sau Nature của Anh. Vì thế, sự kiện một bản đồ phi pháp như thế xuất hiện trênScience rất đáng để chúng ta – bất cứ người Việt nào – quan tâm. Nhiều nhóm viết thư phản đối. Trong đó có anh Phạm Quang Tuấn (giáo sư hoá học, Đại học New South Wales) và tôi viết thư phản đối. Lá thư của nhóm anh Tuấn gửi trước lá thư của tôi vài tuần. 
Sau vài tuần gửi đi, Science trả lời rằng họ sẽ không đăng lá thư của chúng tôi. Thay vào đó, họ đăng một đính chính chung chung rằng Science không nghiêng về phe nào trong tranh chấp! Chúng tôi không chấp nhận kiểu trả lời đó. Anh Phạm Quang Tuấn viết thư phàn nàn và “đấu tranh” đến cùng, và sau vài trao đổi Science đồng ý công bố lá thư trên bản điện tử (nguyên văn lá thư có thể xem dưới đây). Khi tôi viết thư phàn nàn, Science cũng chỉ trả lời chung chung rằng họ đã đính chính. Từng làm editor nên tôi cũng biết “luật chơi” chút ít, tôi gọi điện thoại thẳng cho ban biên tập, nhưng chẳng gặp ai; thay vào đó người thư kí toà soạn nói sẽ chuyển quan tâm của tôi cho ban biên tập. Mấy tuần qua vì quá bận bịu việc hội nghị nên tôi không theo đuổi sự việc.
Nhưng may mắn thay, Science đã công bố lá thư của nhóm anh Phạm Quang Tuấn. Một giáo sư bên Pháp nhận xét rằng “Science phải đăng thư này là một thắng lợi cho người Việt và cho cả cộng đồng khoa học quốc tế, theo tôi.” Tôi cũng nghĩ thế. Tôi cho đó là một thắng lợi (ghét dùng chữ này, nhưng sự thật là khó tìm chữ nào hay hơn) cho cộng đồng khoa học Việt Nam. Lá thư là một chứng từ cho thấy giới khoa học Việt Nam không chấp nhận bản đồ ĐLB. Chính quyền Trung Quốc thường rêu rao rằng từ ngày họ công bố bản đồ ĐLB không ai phản đối, và đó là một sự đồng thuận! Dù biết rằng đó là lí luận trẻ con, nhưng khổ nỗi trong giới cầm quyền TQ có quá nhiều người chưa trưởng thành như thế. Do đó, lá thư này còn là một minh chứng cho thấy bản đồ đó không được người Việt Nam chấp nhận, bản đồ đó sai, và bây giờ thì cả thế giới đều biết.
Xin chúc mừng các bạn đã làm nên một việc rất có ý nghĩa. Đó là món quà quí báu cuối năm cho quê nhà.
NVT
Có thể xem thêm những bài dưới đây:
====
Concern over the South China Sea
Tuan Quang Pham Liem Nguyen, Minh Khanh Nguyen, Tien Khoa Dao, Anh Tuan Kiet Hoang, Quang Thiep Lam, Suan Li Mai, Dang Hung Nguyen, Duc Hiep Nguyen, Van Hieu Nguyen, Luong Quang Nguyen, Thanh Van Tran, Duy-Thoai Pham
School of Chemical Engineering, University of New South Wales, Sydney, NSW 2166, Australia
In "China's demographic history and future challenges" (special section on Population, Review, X. Peng, 29 July 2011, p. 581), the maps of China show a U-shaped curve enclosing most of the South China Sea and its islands (the Paracels and Spratlys), clearly implying that the colored area within the curve belongs to China. However, these islands are subject to territorial disputes between China, Vietnam, the Philippines, Malaysia, and Taiwan. To show these islands unambiguously as Chinese territory is therefore questionable, especially when they are almost uninhabited and irrelevant to the population study in the Review.
The U-shaped curve in the map is even less justifiable. It appears only in Chinese maps and has been claimed by Chinese authors to represent China's traditional maritime boundaries (1). It was used officially by China (2) to claim "sovereign rights and jurisdiction" over the resources of the South China Sea. Wherever it appears, such as in Figure 1 from (2), this curve blatantly infringes other countries' 200–nautical-mile exclusive economic zones (EEZs) as recognized by international law (3). It extends beyond the mid-line between the disputed islands and other countries' coastlines, and thus constitutes a much wider claim than the waters associated with these islands.
China's unilateral claim over vast expanses of ocean is unprecedented in world history and violates the United Nations Law of the Sea (3), which all nations surrounding the South China Sea, including China, have ratified. That China pushes this claim seriously is not in doubt, as evidenced by recent incidents in which Chinese vessels harassed Vietnamese oil exploration ships well inside Vietnam's EEZ (4).
No other nation recognizes China's U-shaped maritime border. Indonesia and the Philippines have officially expressed concern (5, 6). The U.S. Senate passed a unanimous resolution deploring China's actions (7). There is no justification for such a controversial, and, in terms of international law, illegal feature in a scholarly paper. One can only hope that its presence was not due to political pressure.
Tuan Quang Pham
School of Chemical Engineering, University of New South Wales, Sydney, NSW 2166, Australia.
Liem Nguyen, Minh Khanh Nguyen
Case Western Reserve University, Cleveland, OH 44106, USA.
Tien Khoa Dao
Institute for Nuclear Science and Technology, Ha Noi, Vietnam.
Anh Tuan Kiet Hoang
Commissariat à l'Energie Atomique et aux Energie, Cadarache 13108, France.
Quang Thiep Lam
Thang Long University, Hanoi, Vietnam.
Suan Li Mai
Institute of Physics, Polish Academy of Sciences, 02-666 Warsaw, Poland.
Dang Hung Nguyen
University of Liege, 4000 Liege, Belgium.
Duc Hiep Nguyen
NSW Office of Environment and Heritage, Sydney, NSW 1232, Australia.
Van Hieu Nguyen
University of Technology and Management, Hanoi, Vietnam.
Luong Quang Nguyen
Commissariat à l'Energie Atomique et aux Energie, 91191 Saclay, France.
Thanh Van Tran
Université Paris-Sud, 91405 Orsay, France.
Duy-Thoai Pham
Charité University Medicine Berlin, Berlin, Germany.
References
1. J. Li, D. Li, Ocean Dev. Int. Law 34, 287 (2003).
2. China's Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 7 May 2009; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf.
3. United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS); www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm.
4. "Vietnam says China fishing boat rams research ship," The Straights Times, 9 June 2011; www.straitstimes.com/BreakingNews/SEAsia/Story/STIStory_678024.html.
5. Indonesia's Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 8 July 2010; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf.
6. The Philippines's Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 5 April 2011; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf.
7. Sen. J. Webb, "U.S. Senate unanimously 'deplores' China's use of force in South China Sea," 27 June 2011;http://webb.senate.gov/newsroom/pressreleases/06-27-2011.cfm.
Conflict of Interest:
None declared
====
Bản dịch (tôi tạm dịch nhanh trước khi làm chuyện khác):
Quan tâm về biển Đông
Tuan Quang Pham Liem Nguyen, Minh Khanh Nguyen, Tien Khoa Dao, Anh Tuan Kiet Hoang, Quang Thiep Lam, Suan Li Mai, Dang Hung Nguyen, Duc Hiep Nguyen, Van Hieu Nguyen, Luong Quang Nguyen, Thanh Van Tran, Duy-Thoai Pham
School of Chemical Engineering, University of New South Wales, Sydney, NSW 2166, Australia
Trong bài "Lịch sử dân số và thách thức tương lai của Trung Quốc" (của tác giả X. Peng, trên đặc chương về dân số, số ra ngày 29/7/2011, trang 581), có in bản đồ Trung Quốc với một đường cong hình chữ U bao trùm phần lớn biển Đông và các hòn đảo trong vùng (Hoàng Sa và Trường Sa), với hàm ý rõ ràng rằng khu vực tô màu bao bọc bởi đường cong đó thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên, những hòn đảo này còn đang trong vòng tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, và Đài Loan. Công bố bản đồ hình chữ U như là một cách xác quyết rằng đó là lãnh hải của Trung Quốc là đáng nghi ngờ, đặc biệt trong điều kiện các đảo đó hầu như không có cư dân.
Càng khó biện minh hơn sự hiện diện của bản đồ hình chữ U trong bản đồ của Trung Quốc. Bản đồ hình chữ U chỉ xuất hiện trong các bản đồ ở Trung Quốc, và các tác giả Trung Quốc thường nói rằng bản đồ đường hình chữ U thể hiện lãnh hải truyền thống của Trung Quốc (1). Đường hình chữ U được Trung Quốc sử dụng chính thức (2) để ra yêu sách "chủ quyền và tài phán quyền" về tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển Đông. Bất cứ nơi nào có bản đồ hình chữ U, như trong biểu đồ số 1 bài báo (2), bản đồ đó vi phạm một cách trắng trợn đặc quyền kinh tế trong giới hạn 200 hải lí được luật pháp quốc tế công nhận (EEZs) (3). Bản đồ đó còn vượt ra lằn ranh giữa các hòn đảo còn trong vòng tranh chấp và bờ biển của các quốc gia khác, và do đó tạo ra một yêu sách rộng lớn hơn vùng biển liên quan đến những hòn đảo đó.
Yêu sách của Trung Quốc trên một vùng biển rộng như thế là một đòi hỏi chưa từng có trong lịch sử thế giới, và vi phạm luật biển của Liên hiệp quốc (3), vốn được các quốc gia trong vùng biển Đông phê chuẩn. Những va chạm gần đây khi tàu Trung Quốc sách nhiễu tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng lãnh hải của Việt Nam là một chứng cứ cho thấy Trung Quốc thật sự mong muốn yêu sách của họ thành hiện thực.
Không một quốc gia nào (ngoài Trung Quốc) công nhận bản đồ hình chữ U. Nam Dương và Phi Luật Tân đã chính thức ra tuyên bố quan tâm (5, 6). Thượng viện Mĩ cũng thông qua một nghị quyết lên án hành động của Trung Quốc (7). Chẳng có lí do gì để chèn bản đồ còn trong vòng tranh cãi đó vào một bài báo học thuật (của Peng), và đứng trên phương diện luật pháp quốc tế, đó là một bản đồ phi pháp. Hi vọng rằng sự hiện diện của bản đồ đó không phải do một áp lực chính trị.
Phạm Quang Tuấn 
School of Chemical Engineering, University of New South Wales, Sydney, NSW 2166, Australia.
Nguyễn Liêm, Nguyễn Minh Khánh 
Case Western Reserve University, Cleveland, OH 44106, USA.
Đào Tiến Khoa
Institute for Nuclear Science and Technology, Ha Noi, Vietnam.
Hoàng Anh Tuấn Kiệt  
Commissariat à l'Energie Atomique et aux Energie, Cadarache 13108, France.
Lâm Quang Thiệp
Thang Long University, Hanoi, Vietnam.
Mai Xuân Lý  
Institute of Physics, Polish Academy of Sciences, 02-666 Warsaw, Poland.
Nguyễn Đăng Hưng 
University of Liege, 4000 Liege, Belgium.
Nguyễn Đức Hiệp 
NSW Office of Environment and Heritage, Sydney, NSW 1232, Australia.
Nguyễn Văn Hiệu 
University of Technology and Management, Hanoi, Vietnam.
Nguyễn Lương Quang 
Commissariat à l'Energie Atomique et aux Energie, 91191 Saclay, France.
Trần Thanh Vân 
Université Paris-Sud, 91405 Orsay, France.
Phạm Duy Thoại 
Charité University Medicine Berlin, Berlin, Germany.
References
1. J. Li, D. Li, Ocean Dev. Int. Law 34, 287 (2003).
2. China's Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 7 May 2009; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/chn_2009re_mys_vnm_e.pdf.
3. United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS); www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm.
4. "Vietnam says China fishing boat rams research ship," The Straights Times, 9 June 2011; www.straitstimes.com/BreakingNews/SEAsia/Story/STIStory_678024.html.
5. Indonesia's Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 8 July 2010; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/idn_2010re_mys_vnm_e.pdf.
6. The Philippines's Communication to the Commission on the Limits of the Continental Shelf (CLCS), 5 April 2011; www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysvnm33_09/phl_re_chn_2011.pdf.
7. Sen. J. Webb, "U.S. Senate unanimously 'deplores' China's use of force in South China Sea," 27 June 2011;http://webb.senate.gov/newsroom/pressreleases/06-27-2011.cfm.
Conflict of Interest:
None declared
Read more ...