Pages

Người giữ kỉ lục số bài báo khoa học bị rút lại

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011
http://retractionwatch.files.wordpress.com/2011/02/aamisconductcover.gif
Nước Đức năm nay bị 2 sự cố làm xôn xao cộng đồng khoa học.  Vụ thứ nhất là ông [cựu] bộ trưởng quốc phòng zu Guttenberg đạo văn trong luận án tiến sĩ. Vụ thứ hai còn gây chấn động hơn, vì một nhà khoa học rất nổi tiếng phải rút lại 89 bài báo khoa học do lùm xùm chung quanh vấn đề y đức. 


Nhà khoa học giữ kỉ lục đó là Joachim Boldt, 57 tuổi, giáo sư về chuyên khoa gây mê hồi sức bên Đức. Ông là tác giả của khoảng 200 bài báo khoa học, một “ngôi sao” trong lĩnh vực gây mê hồi sức, từng được mời thuyết giảng nhiều nước trên thế giới.  Ông cũng từng sang Việt Nam nói chuyện về gây mê hồi sức.  Những công trình nghiên cứu của ông được công bố trên những tập san uy tín ở Mĩ, Âu châu, và Anh.  Với một “track record” như thế,  ông có một tương lai huy hoàng. 


Thế nhưng đằng sau những thành tích sáng chói đó là một mảng tối. Tuần vừa qua, một “liên minh” 16 tập san chuyên ngành gây mê hồi sức ra thông cáo báo chí rút lại 89 bài báo khoa học mà ông từng công bố trong quá khứ.  Thông cáo này làm ngạc nhiên những ai làm nghiên cứu y khoa, bởi vì trong lịch sử khoa học, chưa có một nhà nghiên cứu nào bị rút lại nhiều bài như thế.  Joachim Boldt giữ kỉ lục về số bài báo bị rút lại. 

http://thestar.com.my/archives/2009/6/14/health/sf_04joachim.jpg
Joachim Boldt


Lí do rút lại những công trình này là vì ông vi phạm y đức nghiêm trọng.  Theo tổng biên tập Anesthesia & Analgesia, công trình nghiên cứu của Boldt và đồng nghiệp công bố vào năm 2009 không được sự phê chuẩn của hội đồng y đức địa phương, và cũng không có sự ưng thuận của bệnh nhân.  Theo chuẩn mực ngày nay, nghiên cứu mà không có sự ưng thuận của bệnh nhân là một vi phạm y đức.  Vì là những nghiên cứu trên bệnh nhân gây mê hồi sức, cấp cứu, nên sự vi phạm này được xem là nguy hiểm. 


Ngoài vấn đề vi phạm y đức, ông Boldt còn bị nghi ngờ là ngụy tạo dữ liệu.  Một số đồng nghiệp nghi ngờ những kết quả nghiên cứu của ông có vẻ quá “đẹp”, quá lí tưởng, và cái nào cũng phù hợp với giả thuyết của ông!  Có nghiên cứu chỉ 16 bệnh nhân, nhưng dữ liệu có vẻ quá “trơn tru”, và điều này gây nghi ngờ trong đồng nghiệp.  Một độc giả của tập san Anesthesia & Analgesia chỉ ra một xu hướng bất bình thường trong dữ liệu, chủ bút tập san liên lạc Hội Y học Rhineland để làm sáng tỏ vấn đề.  Sau đó là những nghi vấn và cáo buộc về ngụy tạo số liệu.  Nhiều đồng nghiệp của ông rất ngạc nhiên.  Ông là người có tất cả: danh vọng, tiền tài, và cá tính dễ mến.  Không ai nghĩ ông lại vi phạm những tội tày trời này.  Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có bằng chứng ngụy tạo số liệu, nhưng có bằng chứng ông giả chữ kí của đồng nghiệp để nộp bài báo khoa học cho tập san. 


Cần nói thêm rằng vấn đề y đức trong nghiên cứu y khoa ngày nay rất quan trọng.  Khái niệm y đức ra đời từ những năm sau phiên tòa Nuremberg 1945-1946, khi người ta tiết lộ trong tòa rằng các bác sĩ Nazi từng làm thí nghiệm (thực chất là tra tấn) bệnh nhân để lấy những thông số y học.  Do đó, năm 1947, các quan tòa ra tuyên cáo mà sau này chúng ta biết như là “Nuremberg Code”, gồm 10 chuẩn mực trong nghiên cứu y khoa.  Trong đó, có nguyên tắc ưng thuận của bệnh nhân và tuyệt đối không được ép buộc bệnh nhân tham gia vào công trình nghiên cứu nếu họ không muốn.  Ở các nước tiên tiến như Mĩ và Âu châu, trước khi thực hiện một công trình nghiên cứu thì các qui trình và đề cương nghiên cứu phải được một hội đồng y đức phê chuẩn.  Các tập san y khoa sẽ không bao giờ công bố những công trình mà hội đồng y đức chưa phê chuẩn. 


Do đó, tôi rất ngạc nhiên là các tập san bên ngành gây mê hồi sức công bố những công trình chưa được hội đồng y đức phê chuẩn!  Có thể nói đây là một sự thất bại trong quá trình bình duyệt bài báo.  Cũng có thể ban biên tập chưa chú ý đến vấn đề này như các ban biên tập của các tập san lớn.  Dù sao đi nữa, các tập san này cũng phải chịu trách nhiệm một phần trong sự việc. 


Nói người lại nhìn đến ta.  Ở nước ta, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, các đại học y và bệnh viện chưa có những hội đồng y đức đúng nghĩa.  Phần lớn những nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng khoa học kĩ thuật, chứ không hẳn là hội đồng y đức.  Một hội đồng y đức đúng nghĩa phải có các thành viên đại diện cho nhà khoa học, quản lí, tôn giáo, cộng đồng, v.v… Nhưng cũng có nhiều công trình nghiên cứu trên bệnh nhân trong bệnh viện mà chưa bao giờ bác sĩ hỏi bệnh nhân có đồng ý hay không.  Bệnh nhân không hề biết mình là vật thí nghiệm của bác sĩ.  Có khi bác sĩ kiếm tiền từ những “nghiên cứu” như thế.  Thật vậy, không hiếm những nghiên cứu mà bệnh nhân còn phải trả thêm tiền xét nghiệm cho nghiên cứu của bác sĩ!  Theo chuẩn mực Nuremberg, đó là những nghiên cứu vi phạm y đức.  Do đó, tôi nghĩ trong tương lai gần, các đại học và bệnh viện cần phải có hội đồng y đức đúng nghĩa để đảm bảo những nghiên cứu y khoa được thực hiện phù hợp với chuẩn mực y đức thế giới.

Trong lịch sử khoa học, chưa có ai phải rút lại quá nhiều bài báo như ông Joachim Boldt.  Trước ông, Jon Darsee (bác sĩ) giữ kỉ lục 82 bài bị rút lại.  Nay, ông Boldt giữ kỉ lục không ai dám tự hào này.  Vì những vi phạm y đức nghiêm trọng như thế, ông Boldt đã bị tước chức danh giáo sư của Đại học Giessen.  Ông cũng bị bệnh viện sa thải.  Ông đã trả cái giá rất đắt cho hành động điên rồ của mình. 


Trong khoa học, thỉnh thoảng có những con cừu đen, nhưng đó không phải là điểm yếu của khoa học.  Thật ra, đó là điểm mạnh của khoa học.  Khoa học là một hoạt động dân chủ và minh bạch, nên có khả năng tự chỉnh sửa.  Chúng ta vẫn có thể đặt niềm tin vào khoa học. 
Read more ...

Việt Nam nợ nước ngoài bao nhiêu?

Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011
http://www.claireperry.org.uk/images/content/sterling-384.jpg
Phải nói ngay rằng bài này không có mục đích bàn về kinh tế, nhưng chỉ mượn bài viết của bác Vũ Thành Tự Anh để bàn về cách trình bày con số thống kê kinh tế và ý nghĩa của những con số đó.  Đọc bài của Tự Anh mấy lần, nhưng tôi không cách gì hiểu được bởi vì những con số trong đó cứ nhảy nhót tứ tung cả.


Giới kinh tế gia là bậc thầy của thống kê. Họ nói cái gì cũng có con số kèm theo.  Họ rất thích con số phần trăm.  Phần trăm tăng trưởng.  Phần trăm GDP.  Nhưng thú thật, nhiều khi đọc qua những con số quá lớn, tôi không có cảm giác gì cả.  Chẳng hạn như có con số nói rằng các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam đang nợ 300,000 tỉ đồng (chỉ là ví dụ), thì làm sao tôi có thể hình dung ra qui mô đó lớn như thế nào.  Thành ra, phải qui ra con số phần trăm của GDP thì dễ hiểu hơn.  Hóa ra, con số tỉ trọng nợ trên GDP là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá nguy cơ một quốc gia sẽ vỡ nợ.  Do đó, con số của nhà kinh tế rất quan trọng, cần phải xem xét cho thật kĩ để hiểu vấn đề.

Theo báo chí thì Việt Nam là nước có nguy cơ cao bị vỡ nợ vì các doanh nghiệp thuộc Nhà nước quản lí thiếu nợ nhiều quá.  Một cách để biết qui mô thiếu nợ là thể hiện số tiền thiếu nợ nước ngoài như là một tỉ lệ của GDP. Tuy nhiên, đọc bài báo trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn thì tôi vẫn chẳng biết Việt Nam thiếu nợ bao nhiêu, vì cách trình bày con số quá rối rắm, và có khi không hợp lí.  Dưới đây là vài lí giải tại sao có những con số không hợp lí:

1.  Chúng ta thử đọc xem năm 2008, các doanh nghiệp Nhà nước nợ bao nhiêu.  Vào đầu, Tự Anh viết “[…] tính đến 31-12-2008, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 287.000 tỉ đồng. Nếu tính cả nợ nước ngoài thì đến cuối 2008, tổng nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xấp xỉ 23,9% GDP.”  Câu này thì tôi hiểu như sau: đến cuối năm 2008, số tiền mà các DNNN nợ chiếm xấp xỉ 24% GDP của Việt Nam.  Nhưng 24% là bao nhiêu USD?  Theo nguồn này thì GDP của Việt Nam năm 2008 là 84.98 tỉ USD.  Như vậy, tính đến cuối năm các DNNN nợ 20.31 tỉ USD.

2.  Bây giờ chúng ta xem qua con số của năm 2009.  Bài báo cho biết: “Trong năm 2009, theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội ngày 1-11-2010 thì nợ của 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (chưa tính Vinashin) là 813.435 tỉ đồng, tương đương với 49% GDP. Nếu tính cả nợ của Vinashin, theo báo cáo của Bộ Tài chính là 86.000 tỉ, thì nợ của khu vực DNNN đến cuối năm 2009 (không kể chín tập đoàn, tổng công ty chưa có số liệu) đã lên tới 54,2% GDP năm 2009.”

Tôi hiểu câu này như sau: đến cuối năm 2009, số tiền mà các tập đoàn DNNN nợ là 813,435 + 86,000 = 899,435 tỉ đồng, chiếm 54.2% GDP của Việt Nam.  Suy ra, GDP của Việt Nam trong năm 2009 là 1,659,474 tỉ đồng (hay khoảng 83 tỉ USD, tính theo 1 USD = 20,000 đồng). Con số GDP này xem ra không hợp lí, bởi vì chúng ta biết rằng kinh tế Việt Nam tăng trưởng hàng năm từ 6 đến 8%, chứ đâu giảm so với 2008. Thật vậy, theo số liệu của Bộ Ngoại giao Mĩ GDP của VN năm 2009 là 92.6 tỉ USD. Con số có vẻ hợp lí hơn là 83 tỉ USD, vì nó thể hiện tăng 9% so với 2008. Nhưng chúng ta vẫn phải dè dặt vì con số này không xuất phát từ nguồn chính thức của Việt Nam.

Vấn đề do đó đặt ra là con số nợ là đúng hay con số GDP sai? Giả dụ như con số về nợ là đúng thì tính đến năm 2009, các doanh nghiệp Nhà nước nợ 44.97 tỉ USD.  Thử đặt vào một bảng số liệu để dễ hiểu:


2008 2009 Tỉ lệ tăng trưởng
GDP (tỉ USD) 84.98 92.60 9 %
Nợ của DNNN (tỉ USD) 20.31 44.97 122 %

Như vậy, chỉ trong vòng 1 năm mà số tiền nợ của DNNN tăng hơn 2 lần. Có lẽ chính vì thế mà giới tài chính quốc tế đánh giá Việt Nam là một trong những nước có nguy cơ vỡ nợ cao.

3.  Bài báo có kèm theo một biểu đồ để minh họa, nhưng cách trình bày dữ liệu thì rất rối rắm.  Trục tung của biểu đồ là phần trăm (tỉ trọng GDP).  Trục hoành là năm.  Mỗi bar có 2 phần: phần dưới thể hiện nợ của DNNN, và phần trên là “Nợ của chính phủ”. Con số nợ của DNNN trong năm 2008 và 2009 (23.9% và 54.2%) được đề cập trong bài viết. Nhưng con số nợ của Chính phủ (36.2% bà 44.7%) thì hoàn toàn không được đề cập trong bài viết! Trình bày con số trong biểu đồ mà không có diễn giải là một "đại kị" trong khoa học.


Tôi không hiểu được biểu đồ này nói lên điểm gì.  Con số 36.2% và 44.7% đề cập cụ thể đến cái gì?  Nếu cộng 2 con số nợ của DNNN và nợ của chính phủ lại thì năm 2009, tổng số nợ chiếm 98.9% GDP sao? Nợ đến mức đó thì vỡ nợ rồi!  Khó hiểu quá.

Ngoài ra, đường nối giữa hai con số có nghĩa là gì?  Cần nói thêm rằng một qui ước chung trong khoa học là không ai dùng biểu đồ để thể hiện những con số đã đề cập trong văn bản cả, vì làm như thế là thừa.

Bài viết còn có một thông tin mà tôi không cách gì hiểu nổi.  Đó là đoạn “Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các khoản nợ nước ngoài và với những tính toán thận trọng nhất thì trong năm 2009, khu vực DNNN chiếm không dưới 60% trong tổng tín dụng nợ nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế”.  Phần tôi tô đậm là phần tôi không hiểu nổi.  “Tổng tín dụng nợ nội địa” là gì?  Chắc chắn phải có một cách viết để thường dân có thể hiểu, chứ đâu cần đến cái cụm từ dài như thế.  Ngoài ra, mới nói ở phía trên rằng trong năm 2009 nợ của các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 54.2% tổng GDP, vậy mà đoạn này nói rằng “không dưới 60% tổng tín dụng nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế”.  Mẫu số của 60% là cái gì?

Nói tóm lại, một bài báo ngắn có nhiều ảnh hưởng, nhưng thông tin thì quá mù mờ.  Mù mờ là do cách trình bày và cách dùng những thuật ngữ kinh tế làm cho thông tin càng thêm khó hiểu.  Tuy nhiên, nói gì thì nói, Việt Nam nợ quá nhiều.  Chỉ riêng doanh nghiệp của Nhà nước mà đã nợ gần 45 tỉ USD, chưa biết doanh nghiệp tư nhân nợ bao nhiêu.  Điều đáng chú ý hay quan tâm hơn là chỉ trong vòng 12 tháng mà số nợ của DNNN tăng hơn 2 lần.  Có thể xem đó là khủng hoảng?

====

http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/ykien/49379/Canh-bao-no-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc.html

Cảnh báo nợ của doanh nghiệp nhà nước

Vũ Thành Tự Anh (*)
Thứ Tư,  9/3/2011, 22:36 (GMT+7)

(TBKTSG) - Theo báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tính đến 31-12-2008, tổng dư nợ nội địa của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 287.000 tỉ đồng. Nếu tính cả nợ nước ngoài thì đến cuối 2008, tổng nợ của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xấp xỉ 23,9% GDP.

Trong năm 2009, theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội ngày 1-11-2010 thì nợ của 81/91 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (chưa tính Vinashin) là 813.435 tỉ đồng, tương đương với 49% GDP. Nếu tính cả nợ của Vinashin, theo báo cáo của Bộ Tài chính là 86.000 tỉ, thì nợ của khu vực DNNN đến cuối năm 2009 (không kể chín tập đoàn, tổng công ty chưa có số liệu) đã lên tới 54,2% GDP năm 2009.
Rõ ràng là nợ của cả DNNN và Chính phủ đều tăng rất nhanh trong một thời gian rất ngắn, trong đó mức tăng nợ của khu vực DNNN thật sự đáng lo ngại.

Nếu nhìn vào con số tuyệt đối, sau khi trừ đi các khoản nợ nước ngoài và với những tính toán thận trọng nhất thì trong năm 2009, khu vực DNNN chiếm không dưới 60% trong tổng tín dụng nợ nội địa tăng thêm của toàn nền kinh tế. Đây là bằng chứng cho thấy các DNNN là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ chương trình hỗ trợ lãi suất và kích cầu của Chính phủ năm 2009.


Việc nợ của DNNN và nợ của Chính phủ đang ở mức khá cao, đồng thời tăng rất nhanh đòi hỏi phải sớm có những biện pháp quản lý nợ công hiệu quả.

Nội dung quan trọng nhất trong quản lý nợ công là quản lý rủi ro. Đầu tiên là rủi ro thị trường - chủ yếu liên quan đến sự thăng giáng thất thường của thị trường. Với viễn cảnh phục hồi đầy bất trắc, cộng thêm sự lan tỏa khủng hoảng nợ trên thế giới, thị trường có thể không mặn mà với trái phiếu chính phủ, đặc biệt là đối với những quốc gia có mức tín nhiệm tín dụng thấp và triển vọng tiêu cực. Phương pháp chủ yếu để hạn chế rủi ro thị trường là đảm bảo sự linh hoạt về thời điểm, cấu trúc, và các điều khoản của việc phát hành nợ.

Thứ hai là rủi ro lãi suất. Rủi ro này chủ yếu xảy ra đối với các khoản nợ có lãi suất thả nổi hoặc không được phòng vệ. Vì tỷ lệ nợ chính phủ với lãi suất thả nổi của Việt Nam còn thấp nên rủi ro lãi suất không phải là điều lo ngại trước mắt. Tuy nhiên, vì Việt Nam đã trở thành một nước thu nhập trung bình nên tỷ trọng các khoản vay thương mại sẽ tăng. Vì lãi suất thương mại thường cao và biến động mạnh hơn lãi suất ưu đãi nên trước khi phát hành nợ, Chính phủ và các doanh nghiệp sẽ ngày càng phải cân nhắc nhiều hơn tới rủi ro lãi suất.

Thứ ba là rủi ro về dòng tiền. Cho đến nay, nợ ngắn hạn chiếm chưa tới 15% trong tổng nợ chính phủ của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại tệ đang tăng lên sẽ đòi hỏi Bộ Tài chính phải hết sức thận trọng trong hoạt động quản lý nợ của mình.

Thứ tư là rủi ro về tỷ giá. Hiện nay khoảng một phần ba nợ chính phủ của Việt Nam là bằng đồng yen, vì vậy nếu đồng yen vẫn tiếp tục xu thế lên giá như hiện nay thì gánh nặng nợ nần cũng gia tăng theo. Tương tự như vậy, với sức ép của Mỹ và EU, xu thế đồng nhân dân tệ tăng giá là khó tránh khỏi. Trong khi đó, tín dụng thương mại bằng nhân dân tệ, đặc biệt là trong các dự án cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng ở Việt Nam đang tăng lên một cách nhanh chóng. Chính phủ cũng như doanh nghiệp vì vậy cần rất thận trọng khi đi vay bằng nhân dân tệ.

Cuối cùng, rủi ro lớn nhất có lẽ nằm ở hoạt động... quản lý rủi ro nợ công! Cho đến nay, từ Bộ Tài chính cho đến các DNNN đều chưa coi trọng đúng mức việc phân tích, đánh giá, và có biện pháp hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro khi phát hành nợ.

Cần lưu ý rằng vì nợ của DNNN và nợ của Chính phủ có tính chất và cấu trúc khác nhau nên cần có những biện pháp quản lý rủi ro thích hợp. Tuy nhiên, dù nợ ở cấp độ nào thì cũng phải tuân thủ một số nguyên lý cơ bản: không nên chấp nhận rủi ro khi không có biện pháp hữu hiệu để thấu hiểu và quản lý nó; không nên chấp nhận một mức độ rủi ro vượt quá một ngưỡng an toàn; và không nên chấp nhận rủi ro nếu không có một sự đền bù thỏa đáng.

Khi bỏ qua những nguyên lý hết sức giản dị nhưng cơ bản này, một doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng khó khăn, thậm chí mất khả năng trả nợ, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp khác cũng như toàn bộ nền kinh tế. Trường hợp Vinashin mới đây là một ví dụ điển hình. Tương tự như vậy, một nền kinh tế cần có chiến lược quản lý rủi ro nợ tốt để tránh đưa đất nước rơi vào gánh nặng nợ nần.
___________________________________
(*) Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright
Read more ...

Để tưởng nhớ đến 2 người tài: Hữu Loan và Phạm Công Thiện

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2011
http://www.ligoal.net/pictung/phamcongthien/PCThien_Hotham.jpg
Ngày cuối tuần đọc báo mạng chợt gặp vài “cố nhân”. Tờ báo Nhịp cầu thế giới vừa giới thiệu bài viết về ngày giỗ của thi sĩ Hữu Loan, và có kèm theo hình của Văn Khoa. Bài viết nhắc đến những folklore cực kì thú vị về thi sĩ. Tôi phục ông thi sĩ này ... sát đất. Tôi nói cố nhân là vì người làm tờ NCTG và Văn Khoa đều là những người tôi từng quen biết cũng cả 15 năm qua. Tin thứ hai là triết gia Phạm Công Thiện qua đời. so với bản tin trên SGTT, bài báo trên Người Việt nói rõ hơn về thân thế và sự nghiệp Phạm Công Thiện, nên tôi lấy về đây để các bạn trẻ nào chưa nghe đến ông biết qua về một người trí thức rất đặc biệt. Từ những năm trước 1975 tôi ngưỡng mộ Phạm Công Thiện như là một đàn anh [tuổi trẻ +] tài cao. Mới độ 20 tuổi mà ông đã có sáng tác triết học. Thú thật, lúc đó tôi đọc tác phẩm của ông mà chẳng hiểu gì cả, phải nhờ đến các bạn hay chữ mới hiểu lõm bõm. Sau này tôi có một bộ sưu tập những tác phẩm phê bình văn học và triết học của ông.  Nay thấy ông ra đi nên ghi lại vài dòng để làm kỉ niệm. NVT



http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=2831

Nhân giỗ đầu thi sĩ Hữu Loan: NHÂN CÁCH CỦA MỘT KẺ SĨ

Giỗ đầu nhà thơ Hữu Loan đã được tổ chức tại quê nhà Nga Sơn - Thanh Hóa của ông vào ngày 2-2 năm Tân Mão, tức Chủ nhật 6-3-2011 trong phạm vi gia đình và một số thân hữu thân thiết của ông lúc sinh thời.
Có mặt trong buổi giỗ, kỹ sư Lê Văn Chính - một cây bút rất tâm huyết và quen thuộc với độc giả NCTG với bút danh Văn Khoa, đồng thời cũng là một doanh nhân có tinh thần dân tộc và yêu văn hóa, được biết đến với thương vụ mua bản quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” với giá 100 triệu đồng vào cuối năm 2004 - cho biết: ngôi mộ của cố thi sĩ đơn sơ và giản dị đến mức bất ngờ, có lẽ vì gia đình ông còn định cải táng cho ông.

Trong bữa trưa ngày Chủ nhật, mọi người đến dự giỗ đầu Hữu Loan đã có dịp nghe nhà văn Hoàng Tiến đọc bài viết mới nhất về Hữu Loan với những nhận xét và thông tin rất đặc sắc. Về mặt thi ca, Hoàng Tiến nhận xét Hữu Loan thuộc hàng các nhà thơ sáng tác không nhiều - vỏn vẹn cả đời mới in một tập thơ với dung lượng hơn chục bài thơ - nhưng một số tác phẩm được truyền tụng và đã trở thành bất tử, như “Màu tím hoa sim”, “Đèo Cả”, “Hoa lúa”…

Điều khiến Hữu Loan được đánh giá là một nhà thơ lớn là ở chỗ theo Hoàng Tiến, ông đã đáp ứng được hai tiêu chuẩn: một là có nội dung tư tưởng chứa đựng những cảm xúc thời đại, hai là có phương thức biểu cảm mới lạ. Hoàng Tiến chứng tỏ nhận xét ấy thông qua bài “Đèo Cả”, khởi đầu được tác giả viết bằng lục bát, rồi không ưng, bỏ đi và chuyển sang thể thơ xuống hàng và trên phương diện này, Hữu Loan đã có những cách tân rất sớm, từ năm 1946-1949 (trước Trần Dần nhiều năm).

Tuy nhiên, nhắc đến Hữu Loan, hậu thế nghĩ ngay đến một kẻ sĩ suốt đời giữ được cốt cách của bậc quân tửphú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không cám dỗ, nghèo khó chẳng chuyển lay, uy vũ không khuất phục). Hoàng Tiến nhắc lại: cố thi sĩ tự ví mình như cây gỗ vuông chành chạnh, không để cho ai đẽo gọt tròn trịa có thể lăn đi bất cứ chỗ nào.

Bài viết của Hoàng Tiến nhắc lại những mẩu chuyện thú vị khi Hữu Loan “tái xuất” trở ra Hà Nội sau gần 40 năm ở Nga Sơn làm ruộng và thồ đá nuôi con. Được biết, khi ra Hà Nội vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước, thi sĩ phải tá túc ở căn hầm là nhà ở của nhà thơ Tú Sót ở 64 Bà Triệu. Căn hầm chật chội luôn phải bật đèn vì thiếu ánh sáng, nhưng nườm nượp người qua lại vì rất nhiều người muốn biết mặt nhà thơ Hữu Loan.

Theo lời Hoàng Tiến, một buổi, trong bữa rượu lạc thanh bần, Hữu Loan bỗng hỏi: “Truyện Kiều” có thằng bán tơ thật không?”. Mọi người ngớ ra. Cái tai nạn của cuộc đời Kiều, khởi nguyên là ở thằng bán tơ: “Phải tên xưng xuất tại thằng bán tơ” (câu 588). Rồi Hữu Loan hỏi tiếp: “Kiều lấy Từ Hải, hùng cứ một phương trời, có cảnh báo ân báo oán làm hả hê cuộc đời Kiều. Cảnh báo oán trừng phạt đầy đủ những người đã gây tai họa cho Kiều. Nhưng không thấy thằng bán tơ. Thế là sao?”.

Ngừng một lúc, nhấc chén rượu lên môi, rồi lại đặt xuống và sau một khoảng im lặng đủ để mọi người suy nghĩ, ông mới nhẹ nhàng lý giải: “Tôi bị cái họa Nhân văn – Giai phẩm, bị vu cho là phản động, lật đổ chính quyền, về Nga Sơn nằm dài, nhân đọc lại Kiều, mới thấy cụ Nguyễn Du nhà ta thánh thật. Thằng bán tơ là nhân vật bịa ra, nhân vật vu khống, không có thật, thì làm sao mang nó ra xét xử được.

Cụ Nguyễn Du giả vờ quên thằng bán tơ là cụ cao tay lắm trong nghệ thuật bút pháp. Kẻ hậu sinh đọc “Truyện Kiều”, suy ngẫm để nhận ra điều ấy, là nhận ra cái xã hội thối nát “Truyện Kiều”, đến công lý cũng vin vào một lời khai vu vơ làm tan nát cả một đời Kiều. Cái xã hội thiếu nhân tính, thiếu tôn trọng con người, gây oan khuất cho những người lương thiện, đáng nguyền rủa biết bao! Cái thâm thúy của cụ Nguyễn Du là ở đấy!
”.

Một mẩu chuyện khác. Hữu Loan về quê làm ruộng, thồ đá bán. Phòng thương nghiệp và dân quân được lệnh xét hỏi. Họ bắt nhà thơ đổ hai sọt đá xuống và nói: “Ông không vào hợp tác. Làm ăn riêng lẻ, để phát triển con đường tư bản. Chúng tôi cấm”.

Nhà thơ đáp: “Chúng tôi bị quy Nhân văn – Giai phẩm, nghĩa là phần tử nguy hiểm hơn cả địa chủ, tư sản. Hợp tác các ông không cho tôi vào. Ở đời này có hai việc tôi không thể làm được. Một là đi ăn cắp, hai là đi làm cán bộ. Nay, tôi lao động, kiếm sống nuôi con, mà các ông cũng cấm. Từ cổ chí kim, tôi không thấy một nhà nước nào cấm người ta lao động cả.

Còn các ông cấm, không cho tôi lao động, thì tôi chỉ còn một cách là đi ăn xin. Ngày mai tôi sẽ khoác bị chống gậy đi ăn xin, đề một tấm biển trước ngực: “Tú Loan, người ăn xin”. Các ông đừng bảo là tôi bôi xấu chế độ nhé
”. Nghe vậy, mấy “ông” thương nghiệp và dân quân quay ra bàn nhau một lúc, rồi rút lui.
Mẩu chuyện thứ ba khi cái họa Nhân văn – Giai phẩm đã lùi xa, nhiều người đến thăm hỏi Hữu Loan. Thấy ông ăn mặc mộc mạc, nhà cửa tuyềnh toàng, có người buột miệng hỏi: “Bấy lâu nay ông bận làm gì, mà không xây nhà cửa cho nó đàng hoàng, ở cho nó sướng cái thân”. Nhà thơ Hữu Loan đáp: “Tôi bận làm người”.

Nhà văn Hoàng Tiến kết luận: “Chúng tôi là lớp hậu sinh yêu thơ ông, quý mến ông, cảm thương những hoạn nạn mà ông đã trải, kính phục trước nhân cách khí khái, ngang tàng, mà chúng tôi thường nói với nhau: một nhân cách vuông chành chạnh!”.


Mộ phần giản dị đến không ngờ


Gia quyến nhà thơ



Ăn trưa và nghe nhà văn Hoàng Tiến đọc bài viết mới về Hữu Loan




Kỹ sư Lê Văn Chính - Văn Khoa bên bàn thờ Hữu Loan





http://sgtt.vn/Van-hoa/141516/Triet-gia-thi-si-Pham-Cong-Thien-qua-doi.html

Triết gia, thi sĩ Phạm Công Thiện qua đời

SGTT.VN - Triết gia, thi sĩ Phạm Công Thiện, sinh ngày 1.6.1941 tại Mỹ Tho, đã qua đời vào lúc 18h31 ngày 8.3.2011 tại thành phố Houston, bang Texas (Mỹ). Ngày 15.3.2011, tại chùa Già Lam (TP.HCM) sẽ tổ chức lễ cầu siêu cho ông.

Theo từ đển Wikipedia, trước 1970, ông giảng dạy tại đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Ông rời Việt Nam năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Đức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles và tiếp tục viết sách - phần lớn là nghiên cứu về đạo Phật.

Những tác phẩm của ông như Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, tổ sư Thiền Tông; Trên tất cả đỉnh cao là im lặng (NXB Văn Hóa Sài Gòn- 2009)… đã được xuất bản ở Việt Nam.


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=127898&z=3

Giáo Sư Phạm Công Thiện qua đời, thọ 71 tuổi
Wednesday, March 09, 2011

HOUSTON, Texas (NV) -Nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng, dịch giả, giáo sư, cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện vừa qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2011 tại Houston, Texas, thọ 71 tuổi, theo Cáo bạch ngày 9 tháng 3, 2011 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ cũng như sự xác nhận của gia đình.


Theo lời một thành viên gia đình nói với một thân hữu, ông Phạm Công Thiện dường như biết trước thời điểm “sẽ đi,” và trong ngày cuối cùng của cuộc đời, ông dặn gia đình “không làm tang lễ rườm rà, chỉ hỏa thiêu.”
Chiều cùng ngày, vẫn theo lời gia đình, ông thấy “mệt dần, bắt đầu nhập định, và ra đi nhẹ nhàng.”

Ông tên thật là Phạm Công Thiện, thời trẻ còn có bút hiệu Hoàng Thu Uyên cho các tác phẩm dịch, sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ Tho trong một gia đình Thiên Chúa giáo. Từ tuổi thiếu niên ông đã nổi tiếng thần đồng về ngôn ngữ, năm 15 tuổi đã đọc thông viết thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tiếng Sancrit và tiếng La Tinh.

Năm 1957, 16 tuổi, ông xuất bản cuốn tự điển Anh Ngữ Tinh Âm, nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm 1970, ông đã cộng tác với các báo Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Từ những năm cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số trường tại Sài Gòn.
Ðầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc “khủng hoảng tinh thần.” Tại đây ông quy y ở chùa Hải Ðức, lấy pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn.

Từ năm 1966-1968, ông là giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Ðại Học Vạn Hạnh. Từ năm 1968-1970, giữ chức trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện. Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng.

Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Ðức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Tại đây ông trút áo cà sa để lấy vợ và sau đó làm giáo sư Triết học Tây phương của viện Ðại Học Toulouse.

Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, giữ chức giáo sư viện Phật Giáo College of Buddhist Studies. Từ khoảng năm 2005, ông sang cư ngụ tại Houston, tiểu bang Texas cho đến ngày ông qua đời.
Giữa thập niên 1960, Giáo Sư Phạm Công Thiện bắt đầu nổi tiếng với các tác phẩm xuất bản tại Sài Gòn, mà cuốn đầu tiên gây chú ý nhiều cho giới văn nghệ và thanh niên sinh viên là Ý Thức Mới Trong Văn nghệ và Triết Học (1965), rồi đến Yên Lặng Hố Thẳm (1967), Hố Thẳm Của Tư Tưởng (1967), Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực (1967). Về tôn giáo có “Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, Tổ sư Thiền Tông” (1964), thơ thì có “Ngày sinh của rắn” (1967), các tác phẩm văn học thiên về tư tưởng: “Trời tháng Tư” (1966), “Bay đi những cơn mưa phùn” (1970). Tất cả các tác phẩm này đều do hai nhà An Tiêm và Lá Bối tại Sài Gòn ấn hành.

Tại hải ngoại ông đã xuất bản khoảng mười tác phẩm, hầu hết trong thập niên 1990, như Ði Cho Hết Một Ðêm Hoang Vu Trên Mặt Ðất (1988), Sự Chuyển Ðộng Toàn Diện Của Tâm Thức Trong Tư Tưởng Phật Giáo (1994), Triết Lý Việt Nam Về Sự Vượt Biên (1995), Tinh Túy Trong Sáng Của Ðạo Lý Phật Giáo (1998), v.v...Ông cũng đóng góp nhiều cho báo chí, chẳng hạn viết cho tạp chí Thế Kỷ 21, nhật báo Người Việt. Có thể nói, tác phẩm cuối cùng của ông là bài viết cho Giai Phẩm Xuân Người Việt 2011.

Thượng Tọa Thích Viên Lý, viện chủ Chùa Ðiều Ngự, California, người từng nhiều năm cư ngụ cùng Phạm Công Thiện tại chùa Diệu Pháp, nói rằng cư sĩ Phạm Công Thiện đã “đóng góp rất lớn về mặt văn hóa đối với Việt Nam,” và luôn “mong Phật Giáo Việt Nam được xiển dương một cách đúng mức.”

Từ khi còn rất trẻ cho đến cuối đời, Phạm Công Thiện đã đóng góp rất nhiều cho văn hóa Việt Nam về các phương diện ngôn ngữ, thơ, văn và đặc biệt về tư tưởng triết học. Ðối với Phật Giáo ông cũng là người có công lớn với các công trình nghiên cứu Phật học, và đặc biệt, đã góp nhiều công sức xây dựng viện Ðại Học Phật Giáo Việt Nam đầu tiên Vạn Hạnh tại Sài Gòn từ năm 1966, trong đó có tập san Tư Tưởng là cơ quan phát huy tư tưởng Phật Giáo quan trọng nhất của Việt Nam trong thời cận đại.


Phạm Công Thiện: ‘Ðã đi mất hẳn đi rồi’
Viên Linh
Sinh hoạt văn hóa miền Nam, thu nhỏ vào lãnh vực Văn Học và Triết Học, và giới hạn từ 1963 trở đi, đã tưng bừng phát triển, như hải triều, như thác đổ, phá vỡ những oi nồng của một thời kỳ ung độc, đưa thế hệ hai mươi thuở đó và những thế hệ hai mươi khác của đất nước trở về với suối nguồn tư tưởng Ðông Phương, là công lao chung của một nhóm thanh niên trí thức đã xuất gia: Nhóm Vạn Hạnh.

Chưa bao giờ sinh viên học sinh miền Nam, vốn khắc khoải trước các vận động mở cửa nhìn ra thế giới, ù tai và nhức óc với những kinh điển siêu hình phương Tây, lại thấy được chân trời lồng lộng sáng lòa, hiển thế, thân ái, ai ngờ lại ở ngay ngưỡng cửa của ngôi nhà dân tộc mình. Hãy trở về Phương Ðông, hãy vực dậy Hồn Việt.

Hồi ấy, mạnh mẽ lên đường từ 65-66, Nhóm Trẻ Tuổi năm bảy người ấy xông xáo trong các tờ tạp chí văn hóa, nơi những nhà xuất bản tôn giáo, dưới mái các giảng đường cao đẳng, vui sống là làm việc, học và hành, tung ra bốn phương những hoa thơm cỏ lạ, những tác phẩm chan chứa tình yêu thương, yêu thương con người nhân loại, tràn đầy hy vọng và tin tưởng. Họ không phải một người. Họ là một toán, một đoàn, một đội. Thời ấy miền Nam đâu đâu cũng nói chuyện võ hiệp, như xa xưa nơi phương Bắc thời các tay tứ chiếng giang hồ tìm về Lương Sơn Bạc mưu chuyện đổi thay; họ tìm về Cao Ðẳng Phật Học và Vạn Hạnh dựng nền đắp móng. Không kể các bậc thầy đã xa như Ðức Nhuận, Thanh Kiểm, Thanh Từ,... hay kế tiếp như Minh Châu, Nguyễn Ðăng Thục, Tôn Thất Thiện, Trần Ngọc Ninh, Vũ Văn Mẫu,... Nhóm Trẻ là “Tây Ðộc” Phạm Công Thiện, “Ðông Tà” Tuệ Sỹ, Chơn Hạnh “Trung Thần Thông,” Chơn Pháp “Bắc Cái,” Nghi Lâm sư muội Trí Hải, và “Chu Bá Thông” Bùi Giáng, võ công tuyệt đỉnh nhưng không chịu hẳn một môn phái nào. Hôm qua, 8 tháng 3, 2011, Phạm Công Thiện đã ra đi.

Nói đến Phạm Công Thiện là nói đến tác phẩm “Ý thức mới trong văn nghệ và Triết học,” cuốn sách các sinh viên thường có trong tay, xuất bản năm 1965. Cũng phải nói đến cuốn luận văn quan trọng của Thiện, phê bình sách của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung về Phật Giáo, và những cuốn khác như:

“Tiểu luận về Bồ Ðề Ðạt Ma, Tổ sư Thiền tông” 1964, “Im lặng hố thẳm, Phương pháp suy tư về Việt và Tính, con đường của Triết lý Việt Nam” 1967, “Hố thẳm của tư tưởng, Ðặt lại căn nguyên tư tưởng hôm nay” 1967; không kể truyện ngắn, hay những cuốn sách viết về Rilke, 1969, Miller, 1969,... Với những cuốn sách ấy, Thích Nguyên Tánh Phạm Công Thiện đã đóng góp công lao lớn trong sự xây dựng Phật Giáo Việt Nam.
Ðể đưa tiễn nhà thơ triết gia, không gì bằng nhắc đến một câu thơ của Goethe mà tác giả “Hố Thẳm” hay nhắc: “Trên Tất Cả Các Ðỉnh Cao, Là Bình Yên.” Mới năm kia, Phạm Công Thiện đã sửa lại hai chữ sau cùng, dùng để đặt nhan đề cho tập thơ cuối cùng của ông, do Hương Tích xuất bản: Trên Tất Cả Các Ðỉnh Cao Là Lặng Im.”

Ðã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Ðã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
Ðại huyền biến ngưỡng triêu tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch hào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim.

(Phạm Công Thiện, Ði, tr. 22, Trên tất cả...)

6 giờ 22, 9 tháng 3, 2011
Read more ...

Lượm và bài học truyền thông thực chứng

Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2011
http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/201007/1735231641-1-images657360_anh.jpeg
Mấy năm gần đây, người ta thấy xuất hiện một khái niệm truyền thông gọi là evidence based journalism, mà tôi tạm dịch là “truyền thông thực chứng”.  Những lùm xùm chung quanh “câu chuyện Lượm” trên VTV1 có lẽ là một bài học về truyền thông thực chứng.


Trong hai thập niên qua, xuất hiện phong trào y học thực chứng (evidence-based medicine) và trở thành một chuẩn mực trong y khoa.  Nói là “thực chứng” bởi vì cơ sở triết lí của evidence based medicine là chủ nghĩa thực chứng (tức là positivism).  Thật ra, y học thực chứng là một một học thuyết mà cũng là một cách thực hành nghề y dựa vào bằng chứng.  Bằng chứng phải được đúc kết từ những công trình nghiên cứu khoa học có chất lượng cao.  Theo y học thực chứng, ý kiến của cá nhân, chuyên gia, dù là chuyên gia mang hàm giáo sư, không có giá trị khoa học bằng chứng cứ khoa học.  Do đó, y học thực chứng trao thẩm quyền cho khoa học, thay vì cho một cá nhân.

Song song với y học thực chứng, mấy năm gần đây, người ta hay nghe hay thấy khái niệm evidence-based journalism, mà tôi tạm dịch là truyền thông thực chứng.  Thật ra, truyền thông thực chứng bắt đầu từ truyền thông khoa học (tức là science journalism) ra đời, khi mà các phóng viên chịu sự ảnh hưởng của giới khoa học trong việc chuyển tải thông tin khoa học đến công chúng.  Trong truyền thông khoa học, bằng chứng đóng vai trò quan trọng nhất.  Bằng chứng phải được dúc kết từ những nghiên cứu có chất lượng, chứ không phải từ ý kiến chuyên gia, càng không phải là những giả thuyết.  Bất cứ phát biểu nào cũng phải dựa vào dữ liệu, chứ không nói “khơi khơi” như truyền thông thông thường được.  Truyền thông thực chứng lấy truyền thông khoa học làm một mô hình hành nghề.

Những thông tin trên chắc đủ làm nền cho câu chuyện tôi muốn bàn qua: đó là câu chuyện Lượm.  Bây giờ thì cái tên mộc mạc đó chắc đã trở thành cái tên quen thuộc trong mỗi gia đình người Việt.
Tôi phải ghi lại vài dòng để các bạn cảm nhận được câu chuyện, bởi vì đọc báo thì có khi rối cả lên và chẳng biết đầu đuôi ra sao.  Lượm là tên của một cô gái có thật ngoài đời, nghèo khổ, và đáng thương.  Câu chuyện đời của Lượm được hư cấu hóa trong một câu chuyện có tựa đề là Tình đầu bất hạnh của cô bé bụi đời gửi đăng dự thi trên báo mạng Tin thức online.  Tác giả bài dự thi đó là Trần Thị Thùy Dương, người quê quán ở Thuận An, Huế.  Thùy Dương rõ ràng là người có tài viết văn.  Chỉ nghe qua câu chuyện của Lượm trong một lần đi thăm nuôi con trai ở bệnh viện mà Thùy Dương đã chấp bút thành một câu chuyện làm cho độc giả cảm động, và thu hút sự chú ý của biên tập viên chương trình Người xây tổ ấm của đài truyền hình VTV1. Biên tập chương trình Người xây tổ ấm mời Thùy Dương lên chương trình chia sẻ và giao lưu cùng khán giả toàn quốc.  Chương trình còn có những đoạn quay cảnh nhà của Thùy Dương (trong vai Lượm), và Thùy Dương tỏ ra xuất sắc trong vai Lượm, làm cho bao nhiêu khán giả sụt sùi.  Có người còn cho tiền, và số tiền lên đến gần 10 triệu đồng.  Có thể nói chương trình Người xây tổ ấm đã thành công về mặt cảm tính.


Trần Thị Thùy Dương

Tuy nhiên, hình như nhận thức được sự việc đã đi quá xa, nên Thùy Dương chủ động nói thật.  Tác giả câu chuyện Lượm viết thư cho biết cô không phải là Lượm; cô xin lỗi khán giản, và tìm cách trả lại số tiền khán giả đã cho dù cô thật sự cần tiền cho ca phẫu thuật tim của con trai cô.  Người biên tập chương trình Người xây tổ ấm có lẽ rất giận, nên không tiếc tuôn ra những tính từ nặng nề cho Thùy Dương.  Điều đáng nói và cần phải nhấn mạnh là người biên tập Người xây tổ ấm không xin lỗi khán giả.  Không xin lỗi, hay không muốn/dám xin lỗi?  Dù tình huống nào đi nữa, thì thái độ của người biên tập thiếu tính chuyên nghiệp.

http://bee.net.vn/dataimages/201103/original/images658370_1.jpg
Biên tập viên chương trình Người xây tổ ấm (ảnh: bee.net)

Nếu phóng viên tác nghiệp theo nguyên lí của truyền thông thực chứng.  Trước một câu chuyện cảm động như thế, phóng viên phải  đặt câu hỏi: đây là hư cấu hay là sự thật.  Đã viết bài dự thi thì ai cấm tác giả không được hư cấu.  Đáng lẽ phóng viên phải tìm hiểu thêm về tác giả và những chi tiết liên quan đến câu chuyện, tiếng Anh gọi là “cross-check”.  Phóng viên sẽ tìm cách liên lạc những người chung quanh hay quen biết để có thêm thông tin, chứng cứ, và câu chuyện sẽ sống động hơn.  Rất tiếc, phóng viên hình như đã không làm theo nguyên lí của truyền thông thực chứng, và sự việc dẫn đến một kết cục chẳng mấy gì hay ho.

Có thể hiểu được khán giả nổi giận.  Dĩ nhiên, người ta cảm thấy bị “take for a ride” :-).  Những người đã động lòng bỏ tiền ra cho cũng cảm thấy mình bị lừa. Nhưng có thật sự Thùy Dương có ý định lừa khán giả không? Tôi không nghĩ như thế.  Nếu có ý định lừa gạt thì chắc chắn chị ấy không viết lá thư trần tình và xin lỗi mọi người.  Tôi Thùy Dương giống như người leo lưng cọp, và phải theo kịch bản của cọp. Đến khi xuống lưng cọp mới thấy việc mình làm là không đúng. Cái hay của Thùy Dương là cô có can đảm và tự trọng để xin lỗi. Ngược lại với thái độ của Thùy Dương, người biên tập VTV1 tỏ ra hung hãn và có vẻ khá ác độc với Thùy Dương. Tại sao chương trình Người xây tổ ấm không đủ can đảm để xin lỗi khán giả?

Người ta không tiếc lời mỉa mai rằng Thùy Dương đóng kịch hay. Tôi nghĩ sẽ rất không công bằng cho Thùy Dương phải hứng nhận những búa rìu dư luận như thế. Đã lên đài truyền hình, ai mà không đóng kịch theo kịch bản? Ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta vẫn đóng kịch đó chứ. Nếu nói rằng Thùy Dương gian dối, vậy xin hỏi các vị phương phi, bụng phệ trán hói; các vị ăn mặc áo veston loại business, mặt hoa da phấn, tóc nhuộm màu nâu màu vàng đó; các vị tiến sĩ giáo sư khệnh khạng xuất hiện trên truyền hình hàng ngày có nói thật không? Họ cũng đóng kịch và nói láo (phần lớn) cả thôi. Vậy thì trước khi cầm viên đá ném vào Thùy Dương, những người đó nên nhìn lại mình. Vấn đề không phải là đóng kịch hay không đóng kịch, mà mục đích của kịch bản là gì.

Câu chuyện Lượm làm tôi nhớ đến chuyện trong khoa học, tuy không có cùng tình tiết, nhưng nói lên qui trình làm việc thiếu chuyên nghiệp tính của VTV1. Chuyện cũ kể rằng giáo sư vật lí Alan Sokal chơi xỏ giới hậu hiện đại bằng cách viết một bài báo “rất kêu”, dùng toàn những ngôn từ đao to búa lớn và trừu tượng nhưng chẳng có ý nghĩa gì. Bài báo được một tập san hậu hiện đại đánh giá cao và cho công bố. Sau đó, Giáo sư Sokal viết một bài khác cho rằng bài ông viết trên tập san hoàn toàn vô nghĩa, vì chính ông cố ý sáng chế ra những từ ngữ đó một cách vô nghĩa để làm như ta đây là trí thức hậu hiện đại! Một xì căng đan lớn làm bẽ mặt ban biên tập của tập san. Ở đây, Thùy Dương không có ý chơi xỏ ai (tôi tin như thế), nhưng qua vụ việc, chúng ta thấy rõ ràng rằng VTV1 là hoàng đế không có long bào!

Tôi nghĩ cả Thùy Dương và ban biên tập Người xây tổ ấm chỉ là nạn nhân của một kịch bản quá vội vã, một nạn nhân của cách tác nghiệp không theo nguyên lí truyền thông thực chứng.  Sự việc này (và nhiều sự việc trước đây) đặt ra một nhu cầu cấp bách cho truyền thông thực chứng.


=====

Dưới đây là truyện dự thi của Thùy Dương (kí tên Bé Lượm):

http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/moitinhdau/469723/index.html

Tình đầu bất hạnh của cô bé bụi đời
 
17/11/2010 07:55 (GMT +7)
 
Tôi là một cô bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Không nhà, không bà con thân thích họ hàng. Không có gì cả ngay cả một cái tên đầy dủ. Chỉ là “Lượm”. Bà đặt tên tôi như thế vì bà bảo ”Bà đã lượm con ở ghế đá công viên đối diện trường Quốc học”. Từ đó tôi đã ở với bà bằng nghề hành khất, nói hai từ hành khất cho hoa mĩ, chứ thật ra đó là một nghề “ăn xin”. Thế mà tôi rất tự hào và sống với bà, chính bà đã cứu sống và nuôi tôi đế khi lớn lên.

Hằng ngày hai bà cháu lang thang từ đầu đường xó chợ để ngả nón mong nhận được vài đồng tiền lẻ và những bữa cơm thừa của những tấm lòng hảo tâm. Tối đến khi thì ngủ ở công viên, nhà ga và các chợ.. Cuộc sống tuy cực khổ và đói rét nhưng thật bình lặng cứ thế trôi đi...
Ảnh minh họa
Một đêm, đó là cái đêm kinh hoàng và nỗi đau đầu tiên đã đến với cuộc đời tôi. Huế năm đó bị lụt rất lớn, hai bà cháu chẳng có một nơi nào để trụ ngụ, đành vào ở tạm trong một ngôi trường. Đêm đó nước dâng lao lắm, tôi và bà bị kẹt ở đó hai ngày, không có gì ăn và vì trời quá lạnh, sức khỏe của bà đã già nên không chịu nổi dần dần bà yếu đi. Tôi nhớ mãi lời nói của bà lúc đó ”Con hãy nhớ giữ mình trong sạch, đói cho sạch, rách cho thơm nghe con”. Tôi gật đầu  lia  lịa và nức nở “Bà ơi, bà đừng bỏ con, con chỉ có một mình bà trên cõi đời này thôi, bà bỏ con con biết sống làm sao, sẽ ở với ai, sẽ làm gì...?”. 

Nhưng mặc cho những lời năn nỉ, van xin bà vẫn xa lìa tôi. Nhìn bà chết dần trong tay tôi mà không thể làm được gì, tôi đau đớn, gào thét lên giữ dội để cầu mong ai đó nghe thấy. Nhưng vô ích, xung quanh tôi chỉ toàn là nước mênh mông và tiếng mưa xé nát cả đất trời. Mắt bà khép lại, thân hình mễm nhũn, tôi không thể khóc thành tiếng nữa, một nỗi đau đến quá bất ngờ và tột độ, tôi ôm thi thể lạnh lẽo của bà vào lòng để sưởi ấm và cầu mong trời mau sáng để nhờ bà con chôn cất bà cho tử tế.

Từ đó tôi đã lầm lũi một mình, tôi đã từ giã nghề ăn xin vì lúc đó tôi đã 15 tuổi. Tôi đi bán vé số, bán báo dạo, lượm ve chai...Cuộc sống kéo dài  như thế cho đến năm tôi 18 tuổi, tôi cũng có một vóc dáng như bao cô gái 17,18 tuổi khác. Cuộc sống bắt đầu kéo tôi vào những nghề nhơ bẩn và xấu xa, nhưng nhớ đến những điều bà trăn trối tôi thà chịu đói, chịu bị tụi bụi đời đánh vẫn không làm gì có lỗi với bản thân, với bà.

Thế là đêm đó đã khuya lắm rồi, tụi nó không tha cho tôi, một đám thanh niên đến tìm tôi, tôi sợ hãi và bỏ chạy ra khỏi công viên thì thấy một chiếc xe máy đi ngang qua, tôi đón đầu chiếc xe máy lại và cầu cứu. Chính người đó đã giải cứu tôi thoát ra khỏi đám du côn đê tiện đó, tôi thành thật kể với anh rằng ”tôi là một con bé mồ côi, là bụi đời”. ”Thế em ở đâu”,anh hỏi. Tôi bảo ”nhà em là công viên, là vỉa hè là bến tàu xe lửa...”. 

Anh nhìn tôi từ đầu đến chân “Thân em con gái dặn trường, anh e rằng sẽ không ổn nếu em cứ tiếp tục sống như thế”. Nước mắt tôi ứa ra ”Em không còn con đường nào để đi đâu”. Anh trả lời ”Nếu em tin anh thì đi theo anh, anh sẽ tìm giúp cho em một chỗ ở tử tế, đàng hoàng”. Linh tính trong tôi mách bảo anh là người tốt, tôi gật đầu đi theo anh.

Anh dẫn tôi đến một khu tập thể ở đường Đống Đa, căn phòng cũng cũ kỹ và nứt nẻ lắm rồi, nhưng với tôi đó là cả một thiên đường. Anh bảo ”đó là căn phòng bạn anh thuê nhưng đã chuyển đi nơi khác rồi, từ nay em cứ ở đây”. Thế là đêm đó, tôi đã ngủ một giấc ngủ thật ngon trong một căn phòng đàng hoàng.

Tiếp theo những ngày sau đó, anh giúp đỡ tôi rất nhiều, anh giúp tôi xin vào làm công nhân trong một xưởng may, mua cho tôi chiếc xe đạp, giúp tôi tập viết, tập đọc chữ... Từ khi có anh cuộc sống của tôi thay đổi hoàn toàn, đó là những giấc mơ mà tôi đã từng ngủ và ước ao được có, anh là vị cứu tinh đã mang đến giấc mơ đó cho tôi, tôi cám ơn và mang ơn anh suôt đời. 

Anh bên tôi 4 năm, dạy bảo biết bao điều tốt đẹp trong cuộc sống. Tôi nhớ có một ngày khi đi làm về anh đã đón tôi trước cổng công ty và đưa cho tôi một cài bì ni lông và bảo ”Em về thay cái áo này rồi chờ anh đến chở đi chơi”. Tôi gật đầu và làm theo anh như một cái máy. Đó là chiếc váy màu vàng nhạt rất đẹp, tôi mặc vào và hồi hộp ngồi chờ anh, cái cảm giác thật khó tả, nó không giống như những lần chơ anh trước đó. 

Rồi tiếng gõ cửa, tôi biết là anh đến, một cảm giác thật khó tả, tôi run người và chậm chạp mở cửa cho anh. Anh nhìn tôi từ đầu đến chân như cái lần đầu tiên anh nhìn tôi và bảo, ”mẹ em chắc là một người phụ nữ đẹp và quý phái”. Rồi anh đưa cho tôi bó hoa, đó là bông hoa lần đầu tiên tôi được tặng. 

Anh nói ”Em có biết hôm nay là ngày gì không?”. Tôi  lắc đầu, anh cốc lên đầu tôi và bảo ”Là ngày Valentine đó”, tôi ngơ ngác ”Ngày Valentine là ngày  gì?”, “Là ngày lễ tình nhân”, tôi lại thắc mắc ”Lễ tình nhân là ngày gì?”. Anh cười và ấn tôi ngồi đối diện với anh, ánh mắt anh trìu mến và giọng nói ấm áp lạ thường ”Là ngày giành cho những đôi nam nữ yêu nhau, họ tặng  quà  là những thanh kẹo sôcla”. Tôi mơ hồ hiểu ra và một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm làm tim tôi rung động, xao xuyến...Sau cái ngày đó, tôi và anh dường như khác hơn, dè dặt, nghiêm túc và ít nói hơn, có lẽ anh cũng thế. 

Đêm hạnh phúc hay định mệnh... Tôi nói như thế, bởi không biết đó là cái đêm anh đem đến cho tôi hạnh phúc đầu tiên trong đời hay là cái đêm để lại kết quả nghiệt ngã sau này dẫn tôi đến con đường nhơ bẩn, cùng cực  nhất. Cũng như bao chiều trước đó, đi làm về anh đến chơi với tôi, nhưng lần này anh không vui đùa như trước nữa mà nghiêm túc dặn dò tôi đủ thứ. 

Tôi cảm động và nước mắt rơi không biết tự lúc nào, anh ghì chặt tôi vào lòng và vỗ về ”Anh sắp phải đi xa rồi, bé ơi!,anh phải đi Mỹ đoàn tụ với gia đình, dòng đời còn nhiều chông gai em nhớ phải sống tốt nha...”. Tôi lặng người đi và bất động, nức nở  trong vòng tay anh: "Sao lại như thế, em lại bơ vơ một mình giữa dòng đời này sao  anh?”. Anh hôn lên trán, lên những giọt nước mắt và an ủi ”anh sẽ về thăm em, nhất định thế, hãy ở đây chờ anh”

Giữa chúng tôi lúc đó không còn giữ khoảng cách nữa, tôi ở gọn trong tay anh như thể chúng tôi đang thu giữ, đang níu kéo tất cả một cách nâng niu, trân trọng, chúng tôi đã vượt qua ranh giới mà suốt gần 5 năm qua anh và tôi gìn giữ. Tôi không hề nuối tiếc, bởi với những gì anh làm cho tôi vẫn không đủ để đáp đền, và tôi tin anh, tin anh yêu thương tôi thật lòng.

Một tháng sau rồi anh đi, trước khi đi anh đã dạy tôi đánh máy tính, tạo cho tôi cái nick chat để tiện liên lạc với anh, tôi yên tâm và nhủ lòng chờ anh. Nhưng rồi một tháng...hai tháng...ba tháng, hàng ngày tôi lên mạng chờ tin của anh nhưng vẫn im bặt, tôi lo sợ có điều gì bất trắc xảy ra với anh, chứ không hề trách và nghi ngờ anh, bởi anh tốt với tôi thế mà. 

Tôi phát hiện trong người  mình khang khác, tôi đi khám thì bác sĩ bảo tôi đã có thai 4 tháng. Một cái tin như xét đánh ngang tai, sao lại trớ trêu như thế. Mọi người khuyên tôi nên bỏ cái thai đó, chứ một mình nuôi con sao nổi. Nhưng hơn ai hết, tôi hiểu được cảm giác bị bỏ rơi là như thế nào, tôi từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi, may mà nhờ có bà, bà là người dưng mà còn thương xót, chịu khổ cực nuôi tôi khôn lớn, thì làm sao tôi có thể vứt bỏ đi đứa con ruột của mình, đứa con kết tinh từ tình yêu đầu  đời của tôi và anh. Tôi quyết định giữ lại đứa bé và chờ một ngày anh trở lại.

Rồi cũng đến ngày tôi sinh được một đứa bé trai kháu khỉnh, tôi vui mừng và hạnh phúc vô cùng. Thay vì sinh xong người ta ở cữ, còn tôi chỉ mới một tuần tôi phải đi bán báo và vé số, vì như thế tôi mới chăm con  được. Hạnh phúc chưa được bao lâu... Cuộc sống lại đến với tôi những cú tát khắc nghiệt buồn rầu, “con tôi bị bệnh tim bẩm sinh”. Lại một nỗi đau nữa cộng thêm vào đời tôi, nước mắt tôi không còn đủ để rơi nữa, tôi nhớ lại lời anh từng nói ”Nếu có quá nhiều nỗi đau nó sẽ tự dựa dẫm nhau mà biết cách vượt qua”, tôi cố gắng kìm nén nỗi đau và lao vào kiếm tiền để chữa bệnh cho con. 

Nhờ có sự giúp đỡ của những nhà từ thiện con tôi được miễn phí tiền mổ. Tôi bữa đói, bữa no, số tiền giành giụm ra đi vì tiền thuốc ngoài và tiền truyền máu, tôi đã phải bán máu 2 lần, sức cùng kiệt tận, nhưng không thể bỏ con tôi trong lúc đang nằm viện mà đi làm được, đành chờ về đêm, khi con tôi ngủ say tôi mới đi làm. Nhưng công việc nào sẽ thuận tiện cho tôi trong thời gian ít ỏi để vừa chăm con, vừa có tiền, câu hỏi cứ lập đi lập lại dằn vặt trong tôi.

Nỗi đau chồng chất nỗi đau. Chỉ còn một con đường để tôi  lựa chọn, đó là làm cave, làm gái đứng đường..., chỉ có thế chứ không còn sự lựa  chọn nào hoàn hảo hơn. Xin xã hội đừng chê trách và đay nghiến tôi, tôi biết đó là đồng tiên nhơ bẩn mà tôi đã từng nhủ không bao giờ tôi bước chân vào cái nghề đó, nhưng bây giờ đó là đồng tiền giành lấy sự sống cho con tôi.

Khi tôi viết những dòng tâm sự này. Là con trai tôi 4 ngày nữa bước vào ca mổ, tôi không có ý viết để dự thi và đạt giải mà mong mọi người trên khắp mọi nơi cầu nguyện cho con tôi thoát khỏi bàn tay của tử thần, bởi nó là nguồn sống, là động lực để tôi bước tiếp. Điều thứ 2 tôi cầu mong là biết đâu nơi nào đó anh ấy đọc được những dòng chữ này để anh về với con tôi.

Tôi không mong anh đón nhận tôi nữa bởi thân tôi đã nhơ bẩn không còn xứng đáng với anh, tôi chỉ mong con tôi có một người cha như bao đứa trẻ khác. Điều thứ 3, tôi ước tìm lại ba mẹ mình, biết đâu có một phép màu giúp mẹ tôi đọc được dòng chữ này. ”Mẹ ơi! Mẹ ở  đâu, nếu mẹ nhận ra con hãy trở về bên con, con cần mẹ, con luôn khao khát được điều đó,con có một vết chàm ở bên cổ trái, một sợi dây chuyền có cái tượng hình ngôi sao mà khi bỏ con mẹ đã đeo cho con, mà con vẫn mãi mang theo bên mình...”.

Bé Lượm
Read more ...

Lộ trình "quốc tế hóa" tạp chí khoa học Việt Nam

Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011
http://publications.australianmuseum.net.au/images/splash.gif
Tiếp tục bàn về các tập san khoa học Việt Nam. Tôi nghĩ câu hỏi hay vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao để quốc tế hóa tập san khoa học VN.  Khôngcó hi vọng (hay tham vọng?) quốc tế hóa tất cả tập san đâu; chỉ dám nghĩ đến 5 tập san là tối đa. Khoảng 15 năm trước một nhóm chuyên gia lập nên tập san J Clin Densitometry và tôi phục vụ trong ban biên tập như là một founding member. Từ đó tôi học đu75c một số điều trong việc đưa tập san vào thư mục của ISI. Dạo đó, phải sau 2 năm mới thành công. Trong 2 năm đó editor in chief rất vất vả tìm bài tốt. Mỗi chúng tôi trong ban biên tập đều đóng góp bài. Ấy vậy mà khi tập san vào được ISI, ban biên tập mới "đá" hầu như tất cả thành viên ban biên tập cũ (trong đó editor in chief và tôi nữa) ra ngoài ban biên tập.  Chẳng ai nói "ăn cháo đái bát" cả. Ai cũng vui vẻ rút lui cho thế hệ mới. Hôm nay nhớ lại chuyện cũ nên đem ra chia sẻ và mách nước cho đồng nghiệp trong nước.



Mấy năm gần đây, có nhiều người đề cập đến một thực trạng đáng quan tâm là sự hiện diện của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế còn quá khiêm tốn. Một trong những cách để nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam là “quốc tế hóa” tập san khoa học Việt Nam bằng cách tạo ra những tập san có bình duyệt và dần dần đăng kí với các thư mục quốc tế.

Hầu như ngành khoa học nào ở Việt Nam cũng đều có ít nhất là một tập san. Có ngành như ngành y có khá nhiều tập san. Trường đại học y nào cũng có tập san khoa học. Đó là một điều tích cực, vì tập san là tiếng nói của ngành và cũng là nơi chia sẻ ý tưởng. Thế nhưng cái khác giữa tập san khoa học Việt Nam và quốc tế là cơ chế bình duyệt (peer review).

Ngoài một số tập san lâu đời và nghiêm chỉnh, phần lớn các tạp chí khoa học ở Việt Nam không có bình duyệt. Tác giả gửi bài đến, một vài người trong ban biên tập xem qua, và quyết định đăng hay không. Phần lớn là đăng. Chẳng những đăng bài mà còn phải trả nhuận bút cho tác giả. Có lẽ do cách làm như thế nên đại đa số những bài báo trên các tập san này có chất lượng khoa học rất thấp. Có rất nhiều lỗi lầm và sai sót cơ bản trong những bài báo. Cách trình bày hết sức sơ sài và tùy tiện, làm cho người đọc thấy hình như tác giả không tôn trọng độc giả. Trong các tập san y khoa mà tôi xem qua, không có bài nào viết đúng tiếng Anh, dù chỉ là tóm lược(abstract).

Còn các tạp chí khoa học quốc tế thì khác hẳn. Mỗi tập san có ban biên tập với thành viên từ nhiều nước trên thế giới. Bài được gửi đến phải qua 2 hoặc 3 chuyên gia bình duyệt, tái bình duyệt, rồi mới đi đến quyết định đăng hay không. Phần lớn bài báo nộp cho tập san quốc tế bị từ chối. Tạp chí có uy tín càng cao (impact factor cao) thì tỉ lệ tự chối càng cao, có khi lên đến 95-99%. Nếu quyết định đăng (tin mừng!) thì tác giả phải trả chi phí in ấn cho nhà xuất bản. Số tiền này không nhiều, được tính dựa vào số trang giấy. Tính trung bình, mỗi trang tốn khoảng 60 đến 120 USD, tùy theo tác giả muốn in màu hay trắng đen, và tùy vào nhà xuất bản.

Có hàng trăm ngàn tập san khoa học trên thế giới, nhưng chỉ có 16 hay 17 ngàn tập san được "công nhận", hiểu theo nghĩa có trong danh mục của Thomson ISI (Viện thông tin khoa học). Đây là những tập san uy tín, do các hiệp hội chuyên môn điều hành và quản lí. Điều kiện để được công nhận thì có nhiều và tôi cũng đã bàn trong một bài khác. Đại khái, tập san phải có ban biên tập quốc tế, công trình đăng được trích dẫn trong một thời gian, có tiêu chí khoa học và cơ chế bình duyệt, v.v…

Không một tập san khoa học Việt Nam nào được liệt kê trong danh mục của ISI. Có lẽ tất cả các tập san khoa học đều không đáp ứng được những tiêu chuẩn trên. Đó là một điều đáng buồn. Điều đó cũng giải thích tại sao những công trình khoa học đăng trên tập san Việt Nam chẳng có bao nhiêu người đọc, ngay cả người trong ngành cũng ít đọc và số trích dẫn càng ít hơn. Có không ít người đã đăng bài trên các tập san quốc tế thì xem những tập san Việt Nam là “lá cải”. Thật ra, nhận xét lá cải cũng thiếu công bằng, vì cũng có một số ít bài có nhiều dữ liệu có ích và thú vị, cho dù cách trình bày thì không mấy tốt.

Vì sự lưu hành của các tập san khoa học Việt Nam hạn chế, nên thông tin đến đồng nghiệp cũng hạn chế. Cần nói thêm rằng các tập san Việt Nam không có hệ thống hóa như Pubmed hay ISI. Vì thiếu cơ sở dữ liệu như thế, nên khi nghiên cứu sinh hay nhà nghiên cứu soạn đề cương nghiên cứu, họ rất vất vả để tìm được những công trình cùng đề tài của các tác giả Việt Nam. Đến khi ra hội đồng phản biện thì xảy ra nhiều điều trớ trêu. Khi bị chất vấn tại sao không trích dẫn công trình từ Việt Nam, hay thiếu trích dẫn tác giả X, nhà nghiên cứu chỉ nói vì không biết (hay không tìm ra). Có người dùng qui ước khoa học để nói thẳng rằng họ không trích dẫn các bài trên tập san Việt Nam vì những tập san đó không có “peer review”. Hệ quả là khoa học Việt Nam bị thiệt thòi.

Theo tôi, rất nhiều tập san khoa học Việt Nam thực chất chỉ là những bản tin chuyên ngành, giống như “bulletin” của các trường đại học. Ấy thế mà có qui định tính điểm những bài đăng trên tạp chí Việt Nam tương đương (thậm chí cao hơn) bài đăng trên tập san quốc tế. Thật khó tìm một lí do nào thích hợp cho quan điểm này. Có lẽ qui định về điểm tập san phục vụ cho nhu cầu tính điểm để phong hàm giáo sư, chứ không phải vì mục tiêu khoa học.

Vấn đề đặt ra là phải làm gì để tập san khoa học Việt Nam có mặt trên trường quốc tế? Tôi đã từng bàn đến câu hỏi này và cũng có vài đề nghị. Nói ngắn gọn, tôi đề nghị (chỉ giới hạn trong ngành y) theo một lộ trình như sau:

1.  Hội y học thống nhất lập ra một tập san y học mới. Có thể lấy tên là Journal of the Vietnamese Medical Association, hay Vietnamese Journal of Medical Science (VJMS). Tập san sẽ có ban biên tập mới, với thành viên từ Việt Nam là chính, và phải hơn 1/3 là các nhà khoa học nước ngoài. Những người này dĩ nhiên là phải có thành tích khoa học (track record) tốt và có tên tuổi trên trường quốc tế. Không khó mời các thành viên như thế, nếu chúng ta làm nghiêm túc và có tiêu chí nghiêm chỉnh.

2.  Tập san sẽ nhận công bố nghiên cứu chủ yếu từ Việt Nam, nhưng cũng mở cho tất cả các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tiêu chuẩn quan trọng nhất của một tập san quốc tế là phải có những bài báo từ đồng nghiệp quốc tế. Do đó, bước đầu tập san sẽ mời các chuyên gia trong ban biên tập viết các bài bình luận (review) như là một đóng góp. Khi thấy có chuyên gia tên tuổi đóng góp bài vở, người ta sẽ dần dần tham gia đóng góp bài vở cho tập san.

3.  Tập san nên dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính, nhưng phần tóm lược thì viết bằng tiếng Việt. Tiếng Anh là ngôn ngữ khoa học quốc tế, cho nên tôi nghĩ dùng tiếng Anh làm phương tiện truyền thông khoa học cũng chẳng có gì quá đáng. Những nước Bắc Âu và vài nước Á châu (như Nhật và Hàn Quốc, và mới nhất là Trung Quốc) vẫn dùng tiếng Anh trong các tập san khoa học của họ.

4.  Tập san nên có cơ chế bình duyệt y như những tập san khoa học quốc tế. Cơ chế bình duyệt là tiêu chuẩn không thể thiếu được cho một tập san khoa học. Dù bình duyệt không phải là cơ chế hoàn hảo, nhưng so với các cách làm khác thì đó vẫn là cơ chế tốt nhất.

5.  Hai năm sau khi tập san đi vào hoạt động và hi vọng có trích dẫn, chúng ta sẽ nộp hồ sơ và đơn đề nghị ISI cho vào thư mục tập san khoa học. Theo kinh nghiệm cá nhân tôi trong thời còn phục vụ trong một tập san y học bên Mĩ, chúng ta cần ít nhất là 2 năm hoạt động có hiệu quả, tức công bố những công trình nghiên cứu tốt, có sự hiện diện của các chuyên gia tầm cỡ quốc tế, thì mới đưa một tập san được cộng đồng khoa học quốc tế "công nhận".

6. Bộ KH&CN cần phải có một cơ sở dữ liệu quốc gia, liệt kê tất cả những bài báo khoa học đã công bố trên các tập san khoa học Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ 20, hay thậm chí thế kỉ 19 (nếu có). Giới khoa học Việt Nam rất cần cơ sở dữ liệu này cho nghiên cứu. Ở Mĩ và các nước lân cận người ta đã có những cơ sở dữ liệu như thế, và đã giúp rất nhiều cho giới nghiên cứu và sinh viên.

Các nước trong vùng có sự hiện diện trên trường khoa học quốc tế cao hơn Việt Nam. Một trong những lí do là họ đã thành công đưa tập san khoa học của họ vào thư mục ISI bằng lộ trình tôi vừa trình bày trên. Không có lí do gì một Việt Nam có nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước mà không lập được một tập san khoa học quốc tế.

Nguồn: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=110&CategoryID=36&News=3882
Read more ...

Trường Đại học khó chen chân vào nhất thế giới!

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Trường đại học nào khó chen chân vào nhất thế giới, Harvard? MIT? Princeton? Stanford? Caltech? Nếu nghĩ vậy có lẽ nhầm, vì còn có một trường đại học khác mà nếu trượt thì vẫn còn nhiều offer học bỗng từ Harvard, MIT hay Princeton. Thử xem trong chương trình này nói gì và tại sao những tên trường có tính mặc định trên không nằm trong danh sách đó!


 

A documentary movie on IIT and its brand reputation. The world's toughest educational institute to get into. Acceptance rate- less than 1.7%. Its a famous saying that combine Harvard, MIT and Princeton - then you will get a feel of the level of IIT. It is very economical and students pay only $700 to study the best-in-the-world education. There are 15 IIt in India, the best ones being Mumbai, Delhi, Kharagpur, Chennai, Kanpur and Roorkee.

Some of Notable alumni include Vinod Khosla, Shailesh Mehta, Narayan Murthy, Rajat gupta, Arun Sarin and many more

The biggest Indian hit movie, '3 Idiots', was based on author Chetan Bhagat's experiences in his engineering life at IIT Delhi.

Students all over India start dreaming of IIt when they are 10 and when they finish their 10th class, they join specialized coaching institutes and study for 10 hours everyday (minimum) for next 2-3 years, and then if they do well then some lucky 3000 people are accepted at these top institutes out of almost 200000 plus applicants. Its a dream.. a way of life.. the best of life.. its best of the India.

The Indian Institutes of Technology (IITs) are a group of 15 autonomous engineering and technology-oriented institutes of higher education established and declared as Institutes of National Importance by the Parliament of India. The IITs were created to train only scientists and engineers.

In order of establishment, they are located in Kharagpur (1950; as IIT 1951[2]), Mumbai (1958), Chennai (1959), Kanpur (1959), Delhi (1961; as IIT 1963), Guwahati (1994), Roorkee (1847; as IIT 2001), Ropar (2008), Bhubaneswar (2008), Gandhinagar (2008), Hyderabad (2008), Patna (2008), Jodhpur (2008), Mandi (2009) and Indore (2009). Apart from these ITBHU Varanasi is also slated for conversion as IIT Varanasi.
Read more ...

Những vấn đề của tập san khoa học Việt Nam

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011
http://sciencenotes.files.wordpress.com/2008/02/cov-journal-science-prev2-med.gif
Bài dưới đây nêu một vấn đề mà tôi cũng từng nhắc đến vài lần: đó là vấn đề chấn chỉnh và “quốc tế hóa” các tập san khoa học Việt Nam.  Theo tôi, các tập san khoa học Việt Nam hiện nay có hai vấn đề nổi cộm: không có cơ chế bình duyệt và không có những bài nghiên cứu có chất lượng.



Việt Nam có trên 500 tập san khoa học của các hiệp hội chuyên môn, đại học, và bộ.  Nhưng không có tập san nào được liệt kê trong thư mục của Thomson ISI.  Được liệt kê trong thư mục tập san của ISI là một hình thức “công nhận”.  Do đó, có thể nói rằng ngoại trừ một số rất ít tập san lâu đời và có chút uy tín, 99% các tập san Việt Nam đều không được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận.

Để được giới khoa học quốc tế công nhận, tập san phải hội đủ một số điều kiện.  Hai trong những điều kiện này là bài báo có chất lượng và có cơ chế bình duyệt (peer review). Hiện nay, các tập san khoa học Việt Nam là những phương tiện để những nghiên cứu sinh có bài cho việc bảo vệ luận án, và thầy cô có bài cho việc đề bạt chức danh giáo sư.  Nhưng bất cứ ai làm nghiên cứu khoa học ở Việt Nam cũng đều biết những bài đăng trên các tập san Việt Nam là những bài không có chất lượng cao.  Có người còn cho biết chỉ khi nào bài báo bị các tập san quốc tế từ chối hết chỗ này đến chỗ khác, họ mới nộp cho các tập san Việt Nam.  Người “ác miệng” hơn thì nói các tập san Việt Nam chỉ là những thùng rác khoa học.  Tôi thì nghĩ nhận xét như thế thiếu công bằng, bởi vì tôi từng thấy bên cạnh những bài làng nhàng, cũng có một số bài có nhiều thông tin thú vị (dù được trình bày rất kém).

Đại đa số các tập san khoa học không có cơ chế bình duyệt.  Tất cả các tập san khoa học trong ISI có một hệ thống bình duyệt nghiêm chỉnh, mà theo đó một bài báo phải qua bình duyệt và tái bình duyệt vài lần trước khi được chấp nhận hay từ chối công bố.  Phần lớn là bị từ chối.  Ngược lại, rất nhiều tập san khoa học Việt Nam sẵn sàng đăng những bài của người quen (như bài báo dưới đây phản ảnh), thậm chí còn trả nhuận bút cho tác giả!  Trong khi đó, đối với các tập san nước ngoài, được chấp nhận cho công bố là một tin mừng, nhưng tác giả vẫn phải trả ấn phí (khoảng 500 đến 1000 USD một bài, tùy theo số trang).  Xin nói thêm rằng một số tập san có chính sách miễn ấn phí cho các nhà nghiên cứu từ các nước “nghèo” như Việt Nam.  Nhưng nay thì Việt Nam được xếp hạng các nước có thu nhập trung bình, nên nhiều tập san đang xét lại chính sách miễn ấn phí này.

Một điều đáng nói nữa là các tập san khoa học Việt Nam có cố gắng viết abstract bằng tiếng Anh.  Tuy nhiên, những tập san y học mà tôi xem qua chưa có tập san nào viết tiếng Anh đúng cả.  Các tập san phía Nam đỡ hơn các tập san phía Bắc, nhưng vẫn có rất nhiều sai sót trong cách diễn giải kết quả nghiên cứu bằng tiếng Anh.  Với một tình trạng như thế, không mong gì chúng ta có thể đưa các tập san khoa học Việt Nam lên trường quốc tế.

Ở Việt Nam còn có một vấn đề khác: không có cơ sở dữ liệu cho các tập san khoa học.  Ở nước ngoài, mỗi khi một tập san trong thư mục ISI công bố một bài báo thì chi tiết bài báo đó (như tên tác giả, tựa đề, abstract, keywords, tên tập san, số trang, v.v…) đều được đưa vào cơ sở dữ liệu của Pubmed (của Mĩ).  Bất cứ ai trên thế giới có truy cập internet đều có thể đọc phần tóm tắt bài báo, hay trong vài trường hợp đọc nguyên văn bài báo.  Pubmed lưu trữ hàng triệu bài báo khoa học tính từ thập niên 1960s đến nay.  Còn ở Việt Nam, tập san cứ xuất bản, cứ công bố bài báo, nhưng không có một cơ quan nào hệ thống hóa các bài báo đó.  Do đó, khi một nghiên cứu sinh muốn theo đuổi một đề tài nghiên cứu, nghiên cứu sinh đó rất khó tìm được những công trình trước ở VN, nhưng có thể tìm các công trình trong Pubmed.  Có lần một nghiên cứu sinh tôi từng giúp kể rằng khi em trình đề cương nghiên cứu thì một số thầy cô phàn nàn là sao không thấy trích dẫn những nghiên cứu trong nước.  Giả định rằng những nghiên cứu đó có liên quan đến đề tài, câu hỏi đặt ra là làm sao em nghiên cứu sinh có thể tìm được những bài báo đó?  Mà, dù có tìm được, những bài đó có xứng đáng được trích dẫn hay không khi chưa có ai bình duyệt?  Theo qui ước khoa học, câu trả lời là không.  Nói tóm lại, có rất nhiều vấn đề liên quan đến các tập san khoa học Việt Nam, và những vấn đề này đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ và có hệ thống để giải quyết.  Tôi sẽ quay lại một số đề nghị quốc tế hóa tập san khoa học Việt Nam trong một bài sau.

NVT
===
http://khoahoc.baodatviet.vn/Home/KHCN/Tap-chi-khoa-hoc-In-ra-cho-minh-doc/20113/134094.datviet

Tạp chí khoa học: In ra cho... mình đọc

Nhiều tạp chí khoa học hiện chỉ để lưu hành nội bộ hoặc biếu, tặng.

Bán 1 tặng 9

Đơn cử như Tạp chí kinh tế và phát triển (Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội), một tạp chí tương đối có uy tín cũng chỉ bán được ra ngoài từ 400-500 bản tiếng Việt/1000 bản in ấn/kỳ phát hành. Đối với bản tiếng Anh số lượng bán ra còn khiêm tốn hơn nhiều, chỉ 60 bản/ 500 bản in ấn/kỳ phát hành. Số còn lại chủ yếu là gửi biếu tặng các cơ quan nhà nước, đại sứ quán các nước tại Việt Nam, các trường đại học đối tác…

Tuy nhiên, không phải viện, trường nào cũng ra được Tạp chí khoa học 1 kỳ/tháng với số lượng phát hành tương đối lớn như tạp chí Nghiên cứu kinh tế  - Viện Khoa học xã hội Việt Nam với số lượng phát hành trên 1000 cuốn/kỳ hay tạp chí Phát triển kinh tế của đại học Kinh tế TP. HCM với số lượng phát hành trung bình 2.200 cuốn/kỳ.

Một số tạp chí khoa học trong nước xuất bản. Ảnh minh họa. (Ảnh: Tư liệu)

Đa số các tạp chí khoa học của các viện nghiên cứu, trường ĐH khác, 2 - 3 tháng mới ra được 1 với số lượng trên dưới 1000 cuốn/kỳ. Có trường mỗi năm chỉ ra đúng 2 số do lượng bài vở quá ít và số lượng phát hành cũng chỉ ở mức 200 - 300 cuốn/kỳ mà chủ yếu là lưu hành nội bộ.

Chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế

Theo số liệu thống kê, trong 10 năm (2000-2010), tạp chí Kinh tế và phát triển chỉ có 20 bài viết từ nước ngoài (chiếm tỷ lệ 6,25%) và 30 tác giả viết bài trên tổng số 389 tác giả là nhà khoa học nước ngoài (chiếm tỷ lệ 7,7%), thấp hơn rất nhiều so với các tạp chí cùng loại trong khu vực và trên thế giới.

So sánh với tạp chí khoa học nước ngoài, TS Trần Vân Anh, Viện Công nghệ ứng dụng (Bộ KH - CN), người đã có nhiều công trình được đăng trên tạp chí khoa học tại Hàn quốc cho biết, để được đăng bài trên các tạp chí của họ thì đề tài phải thật sự mới mẻ, chưa ai làm. Bài phải được sự kiểm tra, phản biện và đồng ý của hội đồng biên tập là những giáo sư đầu ngành rất giỏi và làm việc cực kỳ nghiêm túc. Có nhiều nhà nghiên cứu gửi hàng trăm bài báo mới được đăng 1, 2 bài.
Mang ơn vì đã... đăng bài

TS Lê Quốc Hội, phó tổng biên tập tạp chí Kinh tế và phát triển (Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội) cho rằng chất lượng các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học ở ta còn thấp.

Việc phản biện, thẩm định bài viết còn dễ dãi; không có hoặc có rất ít các nhà khoa học nước ngoài có uy tín tham gia thành viên hội đồng biên tập; số tác giả nước ngoài và bài viết từ nước ngoài chiếm rất ít. Số tạp chí bằng tiếng Anh còn khiêm tốn, chủ yếu là lưu hành nội bộ…

NCS. Lê Nguyễn Minh Tấn, trường ĐHKHXH&NV (ĐHQG TP. HCM) cho biết có nhiều bài báo kém chất lượng nhưng vẫn được đăng vì có một thực tế là nhiều người chỉ cần quen biết thành viên trong hội đồng biên tập thì cứ gửi bài tới là được đăng. Ngoài ra, đôi khi các tạp chí buộc phải cho đăng  vì không có nhiều bài viết để lựa chọn.

Hơn nữa, việc trả nhuận bút cho bài báo không đáng kể, chỉ mang tính chất tượng trưng, không tương xứng với công sức nhà khoa học bỏ ra. Nhiều người vì cần bài báo đăng để được bảo vệ luận án nên không những không được tiền nhuận bút mà còn phải “mang ơn” tạp chí đó.
Minh Cường
Read more ...

Một căn "bệnh số" trong giới báo chí

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011
http://image.shutterstock.com/display_pic_with_logo/86573/86573,1235049619,1/stock-photo-render-of-percentage-numbers-25239559.jpg
Thật ra, phải nói là "báo chí Việt Nam" thì chính xác hơn. Mấy năm gần đây có 2 xu hướng trong cách trình bày con số thống kê trên báo chí Việt Nam rất đáng ... báo động. Xu hướng thứ nhất là trình bày con số phần trăm chính xác đến 2, thậm chí 3, số lẻ. Xu hướng thứ hai là thêm số 0 vào một con số nguyên. Tôi gọi đó là căn bệnh số.  Tôi định viết 3 bài về vấn đề này. Bài dưới đây là bài thứ nhất và đã đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị. Hai bài kế tiếp khi nào thấy hứng thì viết, còn bây giờ phải lo chuyện cơm áo gạo tiền cái đã. 


Một tựa đề bài báo mà bắt đầu bằng một con số (“8,77% ứng viên Hà Nội là người ngoài Đảng"). Chính xác đến 2 số lẻ. Theo tôi đó là một “căn bệnh số” (numerical disease) của giới báo chí. Nhưng có lẽ sự chính xác đó không cần thiết và làm cho người đọc thêm rối rắm.

Thật ra, dòng chữ “ứng viên Hà Nội” đã không minh bạch. Ứng viên Hà Nội là gì, ứng cử vào tổ chức nào? Một cách viết rất mù mờ. Nhưng còn mù mờ hơn nữa là cách trình bày con số: 8,77%. Cách trình bày có số lẻ cho người đọc một ấn tượng khoa học (chính xác), nhưng theo tôi cách gây ấn tượng như thế rất phản tác dụng. Phản tác dụng là vì người đọc sẽ rất khó hiểu và khó cảm nhận được.

Nghiên cứu tâm lí cho thấy một cách nhất quán rằng chúng ta không cảm nhận được những con số quá lớn và quá nhỏ. Chúng ta khó hình dung được những con số triệu, tỉ, thậm chí hàng ngàn. Rất khó cảm nhận được câu nói “mỗi năm có 14.000 người bị tử vong vì tai nạn giao thông”, bởi vì con số quá lớn và không đặt trong một bối cảnh tương quan cụ thể. Nhưng nếu chúng ta có thể hình dung được qui mô của câu nói “mỗi ngày có 38 người chết vì tai nạn giao thông”, bởi vì con số nằm trong phạm vi hình dung của bộ não. Ngược lại, những con số quá nhỏ cũng khó cảm nhận được. Năm 2007, một quan chức ngành thương binh xã hội cho biết “Lao động VN tại Malaysia: Tỉ lệ tử vong chỉ 0,09%” như để nói vấn đề quá nhỏ, và nếu nhìn con số thì quả thật là nhỏ, không đáng kể. Nhưng nếu chúng ta biết rằng con số 0,09% đó tương đương với 107 người lao động Việt bị chết ở Malaysia thì vấn đề không nhỏ chút nào.

Con số phần trăm được xem là một trong những sáng kiến hay nhất của con người. Không ai biết con số phần trăm xuất hiện lần đầu vào lúc nào, nhưng kể từ đó, nó đã được sử dụng trong mọi sinh hoạt của con người, từ khoa học đến báo chí. Bất cứ điều gì quá phổ biến cũng có nguy cơ trở thành bị lạm dụng, và con số phần trăm cũng chính là một nạn nhân của rất nhiều lạm dụng.

Ai cũng biết con số phần trăm là một phân số. Vì là phân số, nên phải có tử số và mẫu số, và thông thường, tử số là một phần của mẫu số. Nếu Quốc hội có 493 đại biểu, và trong số này có 444 người là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, thì chúng ta có thể nói rằng 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên, và 10% đại biểu không phải là đảng viên. Khi con số được làm tròn như trường hợp trên (90%) người đọc có thể cảm nhận được một cách dễ dàng: cứ 10 đại biểu thì có 9 đại biểu là đảng viên.
Nhưng phần lớn những con số phần trăm không chẵn như thế. Chẳng hạn như một bản tin cho biết Quốc hội khóa 13, Hà Nội được cơ cấu có 30 đại biểu và “Chỉ giới thiệu 8,77% người ngoài Đảng ”. Cách trình bày con số như thế rất khó cảm nhận, phi logic, và có thể nói là một ... ngụy biện.

Thứ nhất, khó cảm nhận là vì con số phần trăm chính xác đến 2 số lẻ. Nhớ con số phần trăm đã khó, nhớ đến một số lẻ còn khó hơn, và đòi hỏi người đọc nhớ đến 2 số lẻ là một điều phi thực tế. Trong cuộc sống, chúng ta cần lo toan nhiều chuyện và có nhiều con số phải nằm lòng, rất ít ai có thể nhớ số phần trăm chính xác đến 2 số lẻ. Theo qui ước thống kê, khi mẫu số trên 100, chỉ trình bày số phần trăm chính xác đến 1 số thập phân là đủ; khi mẫu số thấp hơn 100, không cần số lẻ; và khi mẫu số dưới 50, không cần số phần trăm mà chỉ dùng số nguyên để nói.

Thứ hai là phi logic. Nếu Hà Nội có 30 đại biểu, và 8,77% là người ngoài Đảng, thì con số người ngoài Đảng phải là 2,63 người (lấy 30 nhân cho 8,77 và chia kết quả cho 100). Theo tôi biết đơn vị để đếm nhân sự là số nguyên, chứ không phải số lẻ. Chúng ta nói 2 người, 3 người, 10 người, v.v..., chứ không ai nói 2,63 người cả. Nói 2,63 người là một cách số hóa con người, và đó là một sự phi nhân văn.

Thứ ba là ... ngụy biện. Khi nói 8,77% chúng ta nghĩ đến trong số 10.000 người, có 877 người ngoải Đảng, bởi vì chính xác đến 2 số lẻ. Nhưng trong thực tế, Hà Nội chỉ có 30 đại biểu (chứ chưa đến 100), do đó nói 8,77% là nói ra ngoài phạm vi của con số thực tế. Tiếng Anh gọi cách phát biểu này là “over-generalization” – khái quát hóa ra ngoài phạm vi của dữ liệu.

Gần đây, còn có thói quen thêm số 0 trước ngày tháng và số đếm. Hàng ngày, chúng ta vẫn thấy những cách viết như văn bản Nhà nước hay viết theo kiểu “ngày 02/01/2011”, hay những bản tin như “có 08 người bị tai nạn”. Tôi không thể nào hiểu được lí do đằng sau thói quen này, bởi vì hoàn toàn không có một logic hay cơ sở khoa học nào để viết như thế. Tôi cũng không biết thói quen này xuất phát hay bắt chước từ đâu, nhưng rõ ràng là trong thế giới khoa học chẳng ai viết như thế cả. Đây là một thói quen cần phải dứt bỏ. Người ta có thể biện minh bằng lí do hành chính là phải viết như thế để ngừa giả mạo và sửa số liệu. Nhưng lí do hành chính đó hàm ý nói rằng người Việt Nam gian dối quá, gian dối đến nổi Nhà nước và báo chí phải dùng con số 0 trước con số nguyên! Nhưng tôi tự hỏi nếu để ngăn ngừa gian dối thì tại sao không viết ngày tháng bằng chữ (như các văn bản các nước phương Tây vẫn làm trong văn bằng và văn bản pháp lí). Nhưng tôi đang nói chuyện báo chí; báo chí không có lí do để viết theo kiểu "ngày 02/01/2011" và càng không có lí do để viết 08 tai nạn (nếu gian dối thì người ta vẫn có thể thêm 1 trước con số đó thành 108!)

Con số phần trăm bàng bạc trong truyền thông. Nhưng để sử dụng con số phần trăm có hiệu quả, tôi nghĩ giới báo chí nên chú ý đến tâm lí và khả năng cảm nhận của người đọc. Những con số phần trăm chính xác đến 2 số lẻ là không cần thiết. Cũng hoàn toàn không cần thiết phải có con số 0 trước một con số nguyên.

Nguồn: http://www.sgtt.com.vn/Khoa-giao/141077/Mot-%E2%80%9Ccan-benh-so%E2%80%9D-cua-gioi-bao-chi.html
Read more ...

Chẩn đoán ung thư ruột bằng … chó

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011

Xin nói ngay rằng tựa đề trên không có ý đùa, mà một công trình nghiênn cứu khoa học nghiêm chỉnh. Chó có thể chẩn đoán ung thư, và độ chính xác của chẩn đoán có thể còn cao hơn cả những phương pháp hiện đại. 

Ung thư ruột là một trong những bệnh đáng quan tâm, vì tần số xuất hiện càng ngày càng tăng và có thể giảm tuổi thọ cho bệnh nhân.  Xác suất sống sau khi chẩn đoán tùy thuộc vào giai đoạn của ung thư.  Theo nghiên cứu ở Mĩ, nếu ung thư ở giai đoạn 1, xác suất sống sau 5 năm có thể cao hơn 90%, nhưng nếu ở giai đoạn 3 thì xác suất sống sót sau 5 năm chỉ 20 đến 30%.  Hàm ý của những con số này là nếu bệnh được phát hiện sớm và điều trị sớm, có thể cứu sống nhiều bệnh nhân.  

Nhiều hiệp hội chuyên khoa đã ra khuyến cáo nên tầm soát ung thư ruột sớm ở những cá nhân có nguy cơ cao.  Một số yếu tố nguy cơ có thể cho bác sĩ những tín hiệu nguy cơ cao.  Gần 90% những ca ung thư ruột xảy ra ở những cá nhân trên 50 tuổi.  Một số yếu tố khác như tiền sử ung thư của cá nhân và tiền căn ung thư trong gia đình.  Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có giá trị “tín hiệu”, trong thực tế rất khó sử dụng những yếu tố này để xác định ung thư cho một cá nhân.  

Phương pháp tầm soát ung thư ruột là xét nghiệm máu trong phân (còn gọi là fecal occult blood test hay FOBT).  Phương pháp này thường áp dụng cho cá nhân trên 50 tuổi, với mục đích chính là xem có máu đỏ thẩm hoặc đỏ tươi trong hoặc trên phân.  Tuy nhiên, một nhược điểm của phương pháp này là độ chính xác không được cao.  Theo thống kê, cứ 100 người mắc bệnh ung thư ruột, FOBT chỉ phát hiện được 30 hay cao lắm là 60 người.  Nói cách khác, có đến 70% ca ung thư ruột có thể bị FOBT “bỏ sót”! 

Trong nỗ lực tìm một phương pháp tầm soát tốt hơn, các nhà nghiên cứu quay sang … chó.  Gần 30 năm trước, hai bác sĩ người Anh tường thuật rằng bệnh nhân của họ cho biết chó có thể ngửi các nốt ruồi và biết rằng bệnh nhân đó bị ung thư hay không.  Đến năm 2001, các nhà nghiên cứu Anh làm một thử nghiệm sơ khởi và thấy quả thật chó có thể phát hiện ung thư bàng quang qua ngửi nước tiểu.  Trong công trình nghiên cứu sơ khởi này mức độ thành công của chó khá cao, và các nhà nghiên cứu kết luận rằng chó có thể huấn luyện để chẩn đoán ung thư.  Với giả thuyết chó có thể ngửi ung thư, các nhà nghiên cứu Nhật đã thực hiện một nghiên cứu để thẩm định khả năng phát hiện ung thư của chó.  

Phương pháp nghiên cứu rất thú vị!  Các nhà nghiên cứu khởi đầu huấn luyện một chú chó 8 tuổi có tên là Labrador để ngửi hơi thở của bệnh nhân ung thư và ngửi phân.  Thời gian huấn luyện kéo dài đến 3 năm (2003 đến 2005).  Sau đó, họ chọn 33 bệnh nhân ung thư ruột già và trực tràng, và 132 người bình thường (không mắc bệnh ung thư).  Mỗi cá nhân yêu cầu thở và các nhà nghiên cứu “thu lại” khoảng 100 đến 200 ml hơi thở trong một bọc plastic chuyên dụng.  Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn lấy phân của bệnh nhân để chó xét nghiệm.  Nếu chó ngửi đúng ung thư thì được thưởng một xuất ăn, và ngồi xuống trước mẫu; còn nếu không phải ung thư thì chó bỏ đi (và dĩ nhiên là cũng có phần thưởng một xuất ăn!)

Black Labrador  
Chó ngửi mùi có thể biết cá nhân bị ung thư hay không

Kết quả nghiên cứu thật triển vọng.  Trong số 33 bệnh nhân, chó phát hiện đúng 30 bệnh nhân, hay nói theo ngôn ngữ y khoa là độ nhạy 91%.  Trong số 132 người không mắc bệnh, chó “chẩn đoán” không bệnh chính xác đến 99% (còn gọi là độ đặc hiệu).  Khi cho chó ngưởi phân, độ nhạy cao đến 97% và độ đặc hiệu cũng 99%.  Kết quả xét nghiệm bằng phương pháp FOBT cho thấy độ nhạy là 70% và độ đặc hiệu là 85%.  Nói cách khác, khả năng “chẩn đoán” của chó cao hơn rất xa so với phương pháp xét nghiệm phổ biến hiện nay!  Kết quả trên được công bố trên tập san Gut vào cuối tháng 1 năm 2011.   

Kết quả nghiên cứu trên đặt ra nhiều câu hỏi và giả thuyết.  Như đề cập trên, ý tưởng dùng chó trong việc phát hiện ung thư không phải mới.  Ngoài công trình nghiên cứu ở Anh vào năm 2001 dùng chó để phát hiện ung thư, các nhà nghiên cứu Mĩ đi thêm một bước với một nghiên cứu qui mô hơn, cẩn thận hơn và táo bạo hơn: dùng chó chẩn đoán ung thư vú.  Kết quả của công trình nghiên cứu này cho thấy đối với ung thư vú, chó có thế phát hiện chính xác 98% ca bệnh!  Ngay cả đối với ung thư phổi, kết quả cho thấy độ chính cao hơn trường hợp ung thư vú!  Tuy nhiên, đối với ung thư phổi, kết quả nghiên cứu này cho thấy rõ ràng là chó có thể chẩn đoán ung thư chính xác hơn máy X quang. 

Tại sao chó có khả năng phát hiện ung thư chỉ qua ngửi hơi thở hay ngửi phân?  Cho đến nay, không ai biết được câu trả lời chính xác.  Nhưng các chuyên gia ung thư học tin rằng các bướu ung thư có thể phát sinh mùi đặc trăng qua hơi thở, da và phân. Như vậy, kết quả này đưa đường chỉ lối cho giới nghiên cứu tìm cách phát triển một phương pháp nào đó, có thể là hóa học, để phát hiện các đặc tính của hơi thở và qua đó chẩn đoán ung thư.  Hiện nay, chúng ta chưa có các phương tiện để phân tích mùi như thế, nhưng trong chó có thể làm được.  Nên nhớ rằng mũi của chó rất nhạy, nhạy hơn mũi người cả vạn lần!

Kết quả trên và nhiều kết quả trước đó có thể là bằng chứng để dùng chó chẩn đoán ung thư?  Câu trả lời là chưa.  Cho dù chó có thể chẩn đoán chính xác hơn các phương tiện y khoa, chó vẫn chưa sử dụng đại trà trong chẩn đoán và tầm soát ung thư.  Lí do đơn giản là chi phí huấn luyện chó rất đắt tiền và rất lâu.  Ngoài ra, vì tuổi thọ và lão hóa, mỗi chú chó chỉ có thể làm công tác xét nghiệm 10 năm, chứ không lâu hơn được.  Tuy nhiên, nếu một xét nghiệm FOBT tốn 1000 hay 2000 USD thì lợi ích trong việc dùng chó để phát hiện ung thư cần phải được nghiên cứu và phân tích thêm.  Thật ra, chỉ cần vài tính toán đơn giản, tôi nghĩ rằng kết quả phân tích như thế sẽ cho thấy dùng chó có hiệu quả kinh tế hơn là dùng các thiết bị hiện đại. 

Tham khảo:  
1.  McCulloch M, et al.  Diagnostic accuracy of canine scent detection in early- and late-stage lung and breast cancer.  Intergative Cancer Therapies 2006; 5(1):1-10.
2.  Williams H, Pembroke A.  Sniffer dogs in the melanoma.  Lancet 1989; 1:734.  
3.  Church J, Williams H.  Another sniffer dog for the clinic? Lancet 2001; 358:930.   
4.  Willis CM, et al.  Olfactory detection of human bladder cancer by gogs: proof of principle study.  BMJ 2004; 329:712-4.
5.  Sonoda H, et al. Colorectal cancer screening with odour material by canine scent detection.  Gut công bố online 1/2011.

Read more ...