Pages

Lại chuyện tiếng Anh: Sex training!

Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011
http://www.istockphoto.com/file_thumbview_approve/3483564/2/istockphoto_3483564-sex-education.jpg
Một người bạn trong statistics.vn giới thiệu bài báo trên Thanh Niên có tựa đề "Khởi động Sex Training Tour 2011", và hỏi ý kiến. Câu chuyện xem ra thú vị, nên tôi có vài ý kiến như sau.


Không hiểu tại sao Thanh Niên lại đặt cái tựa đề nửa Tây nửa Ta như thế!  Có bao nhiêu người đọc Thanh Niên am hiểu tiếng Anh để hiểu cụm từ “Sex training tour” là gì.  Tôi đoán chắc không nhiều.  Training có nghĩa là rèn luyện, tập luyện, tập huấn, đào tạo.  Còn danh từ sex thì … có nhiều nghĩa: nghĩa đơn giản nhất là giới tính; nghĩa phức tạp hơn là giao phối.  Thật ra, ngày nay ở Việt Nam, nói sex thì chắc nhiều người đã hiểu và sex có khi trở thành một từ trong từ vựng tiếng Việt (?). Còn tour là chuyến đi du lịch, đi chơi.  Do đó, sex training tour có lẽ nên hiểu là chuyến du lịch về tập luyện giao cấu.  Như vậy, sex training tour đâu có nghĩa “Chương trình du lịch giáo dục giới tính” mà Thanh Niên dịch.

Thật ra, sex tour hay sex tourism là một loại hình du lịch hàm ý tiêu cực, nếu không muốn nói là xúc phạm.  Nói đến du lịch sex người ta nghĩ ngay đến du lịch kèm theo các hành vi mua bán dâm với đĩ điếm ở nước sở tại.  Một thời gian dài, Thái Lan ăn nên làm ra vì những loại hình du lịch này.  Người Tây phương, nhất là những kẻ có học vấn thấp ở các nước như Úc, Mĩ, Âu châu, v.v… nhìn Thái Lan như là một thị trường du lịch sex, nơi mà họ có thể bỏ tiền ra mua dâm một cách rẻ mạt, để thể hiện cái thực dân chủ nghĩa thời xa xưa của cha ông họ.  Tôi không nghĩ là Việt Nam muốn tự biến thành một địa điểm sex tourism hay sex training tourism, vì như thế thì nhục lắm.

Đọc đến đoạn cuối của bản tin tôi mới biết rằng mục tiêu của chương trình du lịch là “giáo dục giới tính”, hay nói theo tiếng Anh là Sex Education.  Giáo dục giới tính là một thuật ngữ chung để nói đến những chương trình giáo dục về sinh lí, tái sản sinh, sức khỏe giới, v.v… Vậy thì tại sao không đặt tựa đề bản tin là “Khởi động chương trình du lịch giáo dục giới tính”?  Sao lại “chơi nổi” để cho ra một tựa đề [xin lỗi] lai căng như thế nhỉ?  Chẳng những lai căng mà con sai ý nghĩa. Xin nói thêm rằng tuy hai chữ education và training có cùng một phạm trù về nghĩa, nhưng education là hàm ý nói đến lí thuyết, khái niệm, khoa học; còn training là chủ yếu đề cập đến thực hành, kĩ năng, dạy nghề.  (Bộ Giáo dục và Đào tạo là Ministry of Education and Training).

Các chuyên gia thường khuyến khích nên viết tiếng Anh đơn giản.  Tôi nghĩ tiếng Việt cũng thế: chọn chữ nào càng đơn giản và dễ hiểu càng tốt. Tránh những cái tựa đề hay câu chữ lâu lâu chen vào mấy chữ Anh như teen, top hit, album, hay vô duyên hơn là sex training.

Nói đến chữ training làm tôi nhớ cách đây không lâu khi nhóm chúng tôi tranh luận nhau chữ trained nurse, trained technologist trong bài báo khoa học.  Thông thường trong nghiên cứu y khoa, y tá cùng bác sĩ thu thập dữ liệu, và các chuyên gia tiến hành đo lường các chỉ số sinh hóa, nên người ta thường có câu “Data collection was done by a trained nurse and a doctor.  The skeletal measurements were done by a trained technologist”.  Chữ trained nurse hàm ý nói rằng y tá được huấn luyện để thu thập dữ liệu, và trained technologist là nói rằng chuyên gia được tập huấn để làm đo lường.  Có người trong ban biên tập phê bình rằng chữ trained thường hay dùng cho ... chó (như trained dog) chứ không nên dùng cho người.  Vả lại, đã là y tá hay technologist và đã tham gia nghiên cứu thì phải qua đào tạo rồi, nên viết trained nurse là thừa.  Ai cũng sững sờ trước nhận xét này vì bấy lâu nay ai cũng sử dụng cách viết đó như là một quán tính mà không ai để ý đến ý nghĩa thật của nó.  Nói như thế để thấy rằng cần phải cẩn thận với việc dùng chữ training hay trained. Tôi nghĩ nguyên tắc an toàn là nếu không rõ ý nghĩa của từ, thì cách "an toàn" nhất là dùng từ đơn giản và có ý nghĩa mà ai cũng hiểu.

NVT
===
http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20110228/Khoi-dong-Sex-Training-Tour-2011.aspx
Read more ...

Một vài ý kiến về “làng ung thư”

Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011
http://3.bp.blogspot.com/_QHTO0QEfEKE/S5aLOehFJzI/AAAAAAAAAVA/AWDg-65THlU/s320/cancer+cluster+map.jpg
Đc lot bài ni đau làng ung thư mà tc anh ách! Phóng viên tiêu ra nhiu thi gian đ ghi li mt cách công phu nhng thm cnh gia đình có người mc bnh ung thư. Thế nhưng h không có nhng d liu đnh lượng, nhng con s đ so sánh, đ thuyết phc người đc. Theo tôi, đó là mt khiếm khuyết ln. Trong entry này, tôi so sánh vài t s ung thư đ cho thy rng cn phi điu tra và nghiên cu thêm để đi đến một biện pháp có lợi cho người dân. 

Trong vài năm gần đây chúng ta hay nghe và đọc về những làng ung thư xuất hiện trên toàn quốc mà giới truyền thông có khi gọi là sự bùng phát các “làng ung thư”.  Mẫu số chung của các làng ung thư này là sự hiện diện của các nhà máy kĩ nghệ và ô nhiễm môi trường sống.  Vì chưa có những nghiên cứu có hệ thống và dữ liệu cụ thể nên rất khó để kết luận gì về mối liên hệ nhân quả giữa môi sinh và phát sinh ung thư.  Nhưng thiếu bằng chứng về mối liên hệ không có nghĩa là mối liên hệ không hiện hữu. 
 
Có thể xem sự bộc phát của các làng ung thư là một hiện tượng y tế công cộng rất đáng được quan tâm vì nó ảnh hưởng đến cuộc sống và sức khỏe của nhiều cộng đồng. Nhưng rất tiếc là đứng trước những thông tin về làng ung thư, phản ứng của ngành y tế còn quá dè dặt đến độ ngạc nhiên.  Cuối năm 2005, phát biểu với báo chí về hiện trạng “làng ung thư” Thạch Sơn (tỉnh Phú Thọ), một thứ trưởng y tế nói: “tỉ lệ ung thư tại Thạch Sơn tương đương các tỉnh thành phía Bắc.  Chưa có bằng chứng về sự liên quan của tình trạng ô nhiễm môi trường và bệnh ung thư.”  Một chuyên gia ung thư khác thì cho biết: “tỉ lệ mắc bệnh ung thư của Thạch Sơn không phải là cao”.  Có lẽ xuất phát từ đánh giá như thế của các quan chức, dù các làng ung thư lần lượt xuất hiện mà ngành y tế chưa có động thái nào để kiểm soát tình hình.

Mãi đến nay, khi báo Người lao động nêu vấn đề, Thủ tướng yêu cầu phải kiểm tra. Một vấn đề y tế công cộng đã xảy ra hàng 5 năm trời mà phải cần đến ý kiến của thủ tướng thì thật là bất bình thường.

Theo bài “Nỗi đau ‘làng ung thư’”, tại xã Thạch Sơn (Phú Thọ) có hơn 50 người mắc bệnh ung thư, và tính từ 2010 đến nay đã có hơn 30 người chết vì ung thư.  Tuy nhiên, phóng viên không cho biết làng Thạch Sơn có bao nhiêu cư dân.  Nếu là một làng trung bình ở Việt Nam, đó là một con số rất lớn.  Không thể bỏ qua được.

Dữ liệu thực tế không phù hợp với những đánh giá trên của vị quan chức và chuyên gia.  Tôi đã thu thập một số dữ liệu về các làng ung thư và trình bày trong bảng dưới đây.  Theo nghiên cứu của Viện ung thư quốc gia, ở nước ta cứ 100.000 dân số thì có 106 nam và 59 nữ tử vong vì bệnh ung thư.  Áp dụng tỉ lệ này cho làng Thạch Sơn với dân số khoảng 7.000, chúng ta kì vọng sẽ có khoảng 6 người tử vong vì bệnh ung thư, nhưng trong thực tế ở làng này mỗi năm có 15 người chết vì ung thư.  Nói cách khác, tỉ lệ tử vong vì ung thư ở Thạch Sơn cao hơn tỉ lệ quốc gia đến 2,6 lần!  Như vậy, không thể nói rằng “tỉ lệ mắc bệnh ung thư của Thạch Sơn không phải là cao”.

Thật ra, số liệu mà tôi thu thập trong bảng dưới đây (rất có thể chưa đầy đủ) cho thấy ở bất cứ làng ung thư nào mà báo chí nêu, tỉ lệ tử vong do bệnh ung thư đều cao từ 3 đến 9 lần so với tỉ lệ tử vong của cả nước.  Chẳng hạn như làng Kim Thành (Nghệ An) chỉ 1.900 dân số, mà trong thời gian 7 năm có đến khoảng 100 người tử vong vì ung thư, và tỉ lệ này cao gấp 9 lần so với tỉ lệ của toàn quốc.

Tỉ lệ tử vong vì ung thư tại một số làng xã
Làng / xã (tỉnh)  
Dân số (ước tính) 
Số tử vong do bệnh ung thư mỗi năm 
Tỉ lệ tử vong tính trên 100.000 dân 
So sánh với tỉ lệ trung bình toàn quốc (1) 
Thạch Sơn (Phú Thọ)
7.000
15
214
2,6 lần
Đông Lỗ (Hà Tây)
5.800
22
379
4,6 lần
Minh Đức (Hải Phòng)
?
67
?
?
Thổ Vị (Thanh Hóa)
1.700
80 (14 năm)
336
4,1 lần
Kim Thành (Nghệ An)
1.900
100 (7 năm)
752
9,1 lần
Khánh Sơn (Đà Nẵng)
760
10 (5 năm)
263
3,2 lần
Đại An (Quảng Nam)
1.140
33 (10 năm)
289
3,5 lần
(1) Tính trên tỉ lệ tử vong do nguyên nhân ung thư toàn quốc là 82.5 trên 100.000 dân số (nguồn: PH Anh, ND Duc. Jpn J Clin Oncol 2002;32:S92-S97). 

Hiện tượng “làng ung thư”, mà giới dịch tễ học nước ngoài hay gọi là “cancer cluster” (cụm ung thư) không phải là một hiện tượng mới.  Ở Mĩ, người ta đã chú ý đến những trường hợp ung thư tập trung ở một số địa điểm, và cũng như ở Việt Nam, những địa điểm này thường có các nhà máy kĩ nghệ lớn và có dấu hiệu ô nhiễm môi trường.  Trước hiện tượng này và trong khi chưa có dữ liệu nghiên cứu, người ta thường nghĩ đó là hiện tượng … ngẫu nhiên.

Do đó, vấn đề cần đặt ra nghiêm chỉnh là các làng ung thư ở nước ta có phải là ngẫu nhiên?  Với một số giả định dịch tễ học và vài phép tính xác suất, chúng ta có thể dễ dàng thấy xác suất mà tần số ung thư xảy ra theo cụm như trên là rất thấp (dưới 8 phần vạn).  Nói cách khác, tỉ lệ tử vong trong các làng ung thư trên không phải là do các yếu tố ngẫu nhiên.  Tỉ lệ tử vong ở các làng ung thư này là một hiện trạng bất thường, không thể nói là tương đương với các tỉnh miền Bắc được.

Nếu không phải do yếu tố ngẫu nhiên thì do yếu tố nào?  Trong vài thập niên qua, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu dịch tễ học cho thấy các yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc phát sinh ung thư.  Nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy những cư dân sống trong vùng phải dùng nước giếng (khoan từ lòng đất) có nguy cơ mắc bệnh ung thư đường ruột cao gấp 2 lần so với nguy cơ trung bình trong dân số.  Nghiên cứu ở Nhật cho thấy nồng độ NO2 và SO2 trong không khí có ảnh hưởng đến sự phát sinh ung thư phổi.  Ở Mĩ, có nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy người bị phơi nhiễm diesel có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi cao gấp 1,4 lần so với nguy cơ trong dân số.  Do đó, không thể nói rằng “Chưa có bằng chứng về sự liên quan của tình trạng ô nhiễm môi trường và bệnh ung thư.”

Kinh nghiệm từ các nước tiên tiến cho thấy nghiên cứu các cụm ung thư thỉnh thoảng dẫn đến những khám phá quan trọng trong việc phòng chống ung thư.  Chẳng hạn như khám phá nguyên nhân của ung thư Kaposi, ung thư bọng đái, ung thư bìu đái, v.v… là từ những phân tích dữ liệu sinh thái.  Từ những nghiên cứu này, người ta rút ra một bài học quan trọng là: mối liên hệ giữa phơi nhiễm một yếu tố nguy cơ nào đó (có thể là ô nhiễm không khí hay ô nhiễm nguồn nước), dù là cảm nhận hay thực tế, cần phải được điều nghiên cẩn thận, chứ không nên bỏ qua hay lờ đi.  Giải quyết mối quan tâm của người dân cũng thường dẫn đến những biện pháp phòng bệnh hữu hiệu hơn.

Như nói trên mẫu số chung của các “làng ung thư” này là sự hiện diện của các nhà máy kĩ nghệ và xuống cấp môi trường.  Cho dù hiện nay chưa có dữ liệu để kết luận mối liên quan giữa sự hiện diện các nhà máy này và ung thư, các nghiên cứu từ các cụm/làng ung thư ở Mĩ cho chúng ta biết rằng các chất sau đây làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư trong cộng đồng: arsenic (thạch tính), cadmium, chronium, nickel (kền), asbestos, và  benzene.  Các chất hóa học này cũng giải thích tại sao cư dân thành phố và cư dân sống trong vùng gần nhà máy kĩ nghệ có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn cư dân trong các vùng nông thôn.

Nước ta đang trong quá trình độ thị hóa rất nhanh.  Nhưng phát triển kinh tế nhanh thường kèm theo những hệ lụy về môi sinh và môi trường có ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe cộng đồng.  Chúng ta nhìn sang Trung Quốc và đã thấy những tàn phá về môi trường, nhưng chúng ta chưa có giải pháp tránh những tàn phá như thế ở nước ta.  Hệ quả là ngày nay rất nhiều sông rạch ở nước ta đang trong tình trạng ô nhiễm ở mức báo động.  Chất lượng không khí ở những vùng kĩ nghệ và thành phố lớn cũng bị ô nhiễm ở mức báo động.  Với những hóa chất có khả năng gây ung thư như vừa kể trên, không ai ngạc nhiên khi thấy tần suất bệnh ung thư trong cộng đồng càng ngày càng gia tăng.  Hai thập niên phát triển kinh tế đã giúp nâng cao thu nhập cho người dân, nhưng e rằng cái giá về suy giảm chất lượng cuộc sống mà chúng ta phải trả vẫn chưa được cân đo đúng mức.  Nếu không quan tâm ngay từ bây giờ, thu nhập kinh tế có thể sẽ không bù đấp được cho những hao hụt trong chi tiêu cho các dịch vụ sức khỏe.

Nền tảng của y tế dự phòng là: duy trì sức khỏe lành mạnh tốt hơn là mắc bệnh hay chết.  Đó là tiền đề và cũng là cứu cánh của một nền y tế hiện đại.  Phát biểu đó cần và đủ.  Mỗi cái chết là một mất mát cho quốc gia.  Sứ mệnh của ngành y tế là cứu người và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.  Do đó, trước sự bộc phát của các làng ung thư, cần phải có biện pháp điều nghiên và xác định nguyên nhân hay yếu tố nguy cơ tử vong ở các làng ung thư.  Chỉ có thể qua điều nghiên cẩn thận mới có thể tiến đến một chiến lược phòng ngừa.  Các chuyên gia ung thư quốc tế ước tính rằng có đến khoảng 50% trường hợp ung thư có thể xem là có thể phòng ngừa được bằng cách thay đổi cách sống khỏe hơn, và thay đổi môi trường sống lành mạnh hơn.  Cư dân các làng ung thư có quyền đòi hỏi môi trường sống của họ lành mạnh hơn để giảm thiểu những cái chết vì ung thư.

Quay trở lại trường hợp xã Thạch Sơn. Thạch Sơn cũng là địa bàn của một công ti hóa chất ngày đêm xả khói. Nhưng có thể nào nói hoạt động và phế thải của công ti là một nguồn gây ung thư cho dân làng?  Đứng trên phương diện khoa học, không thể kết luận được, và cũng khó có thể suy luận về nguyên nhân -- hệ quả. Nhưng đối với các nhà môi trường học thì có thể làm nghiên cứu thêm để tìm hiểu mối liên hệ. Những dữ liệu ban đầu cho thấy (nếu những con số báo chí nêu là đúng) thì một cuộc điều tra y tế cần phải thực hiện càng sớm càng tốt.
Read more ...

Bảy mươi năm tình ca Việt Nam

Chủ Nhật, 27 tháng 2, 2011
http://cothommagazine.com/nhac/lyrics/Music.jpg
Có thể xem đây là một “anthology” (hợp tuyển) nhạc tình Việt Nam, giống như Nhà văn Võ Phiến đã từng làm một anthology công phu cho văn học miền Nam trước 1975. Thật ra, phải nói chính xác hơn là 70 năm tình ca miền Nam Việt Nam, bởi vì người sưu tập và tuyển chọn chủ yếu giới hạn trong những nhạc sĩ và tác phẩm ở miền Nam Việt Nam.  Hợp tuyển gồm 94 phần giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhạc sĩ từ năm 1930 đến 2000.


Qua hợp tuyển này, các bạn sẽ được nghe một số nhạc phẩm tiêu biểu của những nhạc sĩ thời khởi đầu tân nhạc Việt Nam như Phạm Duy, Lê Thương, Văn Cao, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Hoàng Giác, Đan Thọ, đến những nhạc sĩ ở miền Nam trong thời chiến tranh như Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Thanh Sơn, Anh Bằng, Hoài Linh, Mạnh Phát.  Ngoài ra, người sưu tập còn giới thiệu một số nhạc sĩ sau 1975 như Ngọc Lễ, Quốc Dũng, Lê Tín Hương, Trịnh Nam Sơn, v.v… Tuy chưa đủ (và có lẽ người sưu tập – Hoài Nam – cũng không có tham vọng đó) nhưng đã cho chúng ta một “bức tranh” tổng quan về âm nhạc miền Nam trước 1975. Mỗi nhạc sĩ, người sưu tập đã có công nói sơ qua về thân thế, sự nghiệp, và bối cảnh sáng tác của họ.  Tôi nghĩ các bạn trẻ chưa quen với nền âm nhạc Việt Nam thời xưa sẽ tìm thấy một số thông tin thú vị về các nhạc sĩ mà nhạc phẩm của họ mình đã nghe qua hay thậm chí ca hát hàng ngày.  Có thể những nhận xét đó có phần thiên lệch, thậm chí vài ngôn từ mang âm hưởng Bolsavik, nhưng nói chung tôi thấy người sưu tập cố gắng tỏ ra khách quan.

Nghe trực tiếp hợp tuyển này tại đây

Không chỉ giới thiệu tiểu sử, người sưu tập còn có công lớn đưa ra vài nhận xét về tác phẩm của các nhạc sĩ. Có thể những nhận xét về âm nhạc chưa chuyên sâu, chưa chuyên nghiệp, hay chẳng có phát hiện gì mới, nhưng tôi vẫn thấy đó là những lời nhận xét đáng chú ý và chừng mực. Ít ra là người sưu tập đã nói ra nhiều suy nghĩ của cá nhân tôi.  Nghe người sưu tập nói, tôi chợt chú ý một nhạc sĩ mà rất ít ai để ý đến vì tác phẩm của ông được xếp vào nhóm “nhạc bình dân” (hay nói trắng ra là nhạc sến), thế nhưng lời ca thì thật hay: đó là Hoài Linh.  Xin nói thêm là không phải Hoài Linh bây giờ đâu, mà là nhạc sĩ Hoài Linh, tác giả của những ca khúc như Chiều thương đô thị, Chúng mình ba đứa, Cô bé ngày xưa, Kể chuyện đêm mưa, Quán nửa khuya, Về đâu mái tóc người thương, v.v… Và, cũng xin mở ngoặc để nói ngay rằng khi nói “nhạc sến” tôi không có ý xem thường hay khinh thường loại nhạc này, mà chỉ nói theo cách nói phổ thông. Quả thật, ngày xưa tôi chỉ nghe những bài ca của ông và xem như loại “nhạc sến” của Lam Phương hay Trần Thiện Thanh, và vì thế tôi chỉ nghe để giết thì giờ, chứ ít khi nào để ý lời hay ý đẹp trơng ca khúc.  Đến khi nghe nhận xét của người sưu tập tôi mới chú ý đến những câu như:

Hồn lỡ sa vào đôi mắt em
Chiều nao xõa tóc ngồi bên rèm
Thầm ước nhưng nào đâu dám nói
Khép tâm tư lại thôi
Đường hoa vẫn chưa mở lối


Ngày nay, có mấy ai còn có thể viết những lời ca đẹp như thế.

Xin giới thiệu cùng các bạn anthology 70 năm tình ca Việt Nam.

NVT

TB. Có thể tải tất cả 94 phần của hợp tuyển từ các website sau đây:

Phần thứ nhất gồm  đoạn 1 đến 38: http://www.megaupload.com/?d=B4IN5CED

Phần thứ hai gồm đoạn 39 đến 94: http://www.megaupload.com/?d=LE2TJV54
Read more ...

Một đề nghị cải cách chức danh “giáo sư”

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/f/ff/Professor.PNG
Năm 2010, Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) vừa tiến phong cho 71 giáo sư và 507 phó giáo sư.  Tính từ đầu thập niên 1980 đến nay, nước ta đã có gần 9000 giáo sư, trong số này có 1407 giáo sư.  Mặc dù chức danh giáo sư trên danh nghĩa dành cho những nhà khoa bảng giảng dạy và nghiên cứu trong đại học, ở nước ta chỉ có khoảng 2100 giáo sư và phó giáo sư (tức chưa đến 1 phần 4) thực sự giảng dạy trong các đại học.  Theo tôi, cần có một sự cải cách trong việc tiến phong và phân nhóm giáo sư để phù hợp với tình hình phát triển khoa học và công nghệ nước nhà. 


Chức danh giáo sư và hệ thống khoa bảng 

Hệ thống thang bậc khoa bảng trên thế giới có nhiều khác biệt, và đã trải qua nhiều thời kì cải cách.  Trong các trường đại học Tây phương, người ta phân biệt ba cấp khoa bảng mà tôi tạm gọi [theo chức năng và trình độ] là: tập sự, trung cấp, và cao cấp.

Ở bậc tập sự gồm các chức vụ như Teaching Assistant, Tutor. Proctor, v.v...  Những nhân viên này có trách nhiệm làm phụ giảng, chấm bài thi, giám thị trong phòng thí nghiệm, v.v…

Ở bậc trung cấp gồm những nhân viên khoa bảng mang học hàm như Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre Assistant (Pháp) và Assistant Professor (Mĩ).  Những nhà khoa bảng này là những người đang ở bước đầu trong nấc thang sự nghiệp khoa bảng, có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy sinh viên và làm nghiên cứu hoặc độc lập, hoặc dưới sự chỉ đạo của các giáo sư thâm niên.

Trên trung cấp một bậc là những nhân viên khoa bảng mang học hàm Reader, hay Senior Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre de Conférence (Pháp) và Associate Professor (Úc và Mĩ).  Những người này là những nhà khoa bảng đang ở trong thời kì "quá độ" để chuẩn bị được đề bạt lên một chức vụ khoa bảng cao nhất trong hệ thống học hàm đại học.  Trong đại đa số, họ cũng là những nhà nghiên cứu độc lập và có ít nhiều uy tín trong chuyên môn cấp quốc gia và quốc tế.

Cao nhất là các chức danh Professor.  Họ là những nhà khoa bảng kinh nghiệm lâu năm và quá trình nghiên cứu có uy tín trên trường quốc tế.  Họ cũng thường là những chuyên gia hàng đầu trong một chuyên ngành và có nhiều đóng góp đáng kể cho chuyên ngành cấp quốc tế.

Nói chung, các đại học trên thế giới hiện nay có xu hướng đơn giản hóa hệ thống chức danh khoa bảng theo mô hình của Mĩ.  Theo mô hình này, có 3 chức danh chính: assistant professor, associate professor, và professor.  Các đại học Á châu và một số ở Âu châu đã dần dần chuyển sang hệ thống 3 bậc giáo sư của Mĩ.  Ngay cả một số đại học Úc từng theo truyền thống Anh quốc (có 4 hay 5 bậc chức danh) ngày nay cũng bắt đầu chuyển hướng sang mô hình đơn giản của Mĩ.

Ở Việt Nam ta, hệ thống khoa bảng có vẻ đơn giản hơn.  Hiện nay, chúng ta chỉ có hai chức danh “phó giáo sư” (được xem là tương đương associate professor) và “giáo sư” (professor).  Thật ra, từ “phó” có lẽ không chính xác, bởi vì trong thực tế, người mang danh phó giáo sư chẳng làm phó cho ai cả, mà họ là những nhà nghiên cứu độc lập, thậm chí còn giữ chức vụ hành chính cao hơn cả giáo sư.


Chức danh giáo sư Ta và giáo sư Tây

Ở hầu hết các đại học phương Tây và Á châu, chức danh giáo sư là một chức được bổ nhiệm.  Và tính bổ nhiệm, nên chức danh giáo sư cũng có thời hạn nhất định.  Thông thường, chức danh giáo sư có thời hạn từ 3 đến 5 năm.  Sau thời hạn đó, ứng viên phải làm thủ tục được bổ nhiệm lại (renew).  Sau khi nghỉ hưu, tùy vào trường hợp, có nhiều người không có quyền dùng danh xưng “giáo sư” trước tên mình.

Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, chức danh giáo sư được xem như là một phẩm hàm.  Vì là phẩm hàm, nên người được tiến phong có quyền sử dụng danh xưng này suốt đời.  Ngày nay, qua vài lần cải cách, chức danh giáo sư không còn là một phẩm hàm, nhưng người được tiến phong chức danh vẫn phải tìm một cơ sở giáo dục để nghiên cứu hay giảng dạy.

Ở các nước trong vùng hay phương Tây, chức danh assistant professor, associare professorprofessor thường gắn liền với một trường đại học. Đó là những chức danh do trường đại học cấp, dựa theo những tiêu chuẩn về thành tích nghiên cứu khoa học, thành tựu trong giảng dạy và đào tạo, mức độ đóng góp cho chuyên ngành cấp quốc gia và quốc tế, mức độ đóng góp cho cộng đồng.
Vì là chức danh của một trường đại học cụ thể, giáo sư của một trường này không hẳn sẽ được công nhận ở một trường khác.  Trên thế giới, và ngay cả trong cùng một quốc gia, không phải đại học nào cũng như nhau về mặt chất lượng.  Do đó, tiêu chuẩn đề bạt chức danh giáo sư cũng rất khác nhau giữa các đại học.  Một người có thể là giáo sư ở đại học A, nhưng nếu chuyển đến đại học B thì có thể chỉ là phó giáo sư, hay thậm chí thấp hơn.

Ngược lại với qui chế ở nước ngoài, Việt Nam có qui chế tiến phong chức danh theo mô hình tập trung.  Theo mô hình này, chức danh giáo sư do HĐCDGSNN xét duyệt và phong tặng sau khi ứng viên đã trải qua xét duyệt ở cấp cơ sở và đã đạt những tiêu chuẩn do HĐCDGSNN đề ra.  Người được đề bạt chức danh giáo sư có khi không gắn liền với một trường đại học nào.  Thật vậy, trong số gần 9000 giáo sư và phó giáo sư đã được tiến phong trong gần 30 năm qua, hơn 75% không làm việc trong các đại học.  Rất nhiều quan chức cao cấp trong bộ máy hành chính và quản lí tuy không làm nghiên cứu khoa học hay giảng dạy nhưng cũng mang chức danh giáo sư!  Đó là một điều bất bình thường.

Cần cải cách chức danh giáo sư

Trong trào lưu tương tác giữa đại học, chính phủ và kĩ nghệ, cần phải có qui chế về chức danh cho những người không làm việc trong các đại học.  Ở các nước phương Tây, một số chuyên gia tuy không nằm trong biên chế của đại học, nhưng do có những đóng góp cho đại học qua giảng dạy và nghiên cứu cũng có thể được phong chức danh giáo sư, nhưng tiêu chuẩn rất khác với các giáo sư của đại học.  Theo tôi, cơ chế này cũng có thể áp dụng cho Việt Nam.

Tôi đề nghị phải phân biệt rõ giữa 2 loại giáo sư chính thức và giáo sư không chính thức.  Giáo sư chính thức là những người thuộc biên chế của đại học và nhận lương từ đại học.  Giáo sư “không chính thức” là những người không phải của đại học và cũng không nhận lương từ đại học, nhưng có đóng góp hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp cho đại học.  Do đó, ngoài việc phong chức danh cho các giáo sư như hiện nay, cần phải phát triển những tiêu chuẩn cụ thể cho các giáo sư không chính thức (không nằm trong biên chế của đại học).  Theo đó, cần phải có những chức danh giáo sư kiêm nhiệm, giáo sư danh dự, cựu giáo sư, và giáo sư thỉnh giảng.

Giáo sư kiêm nhiệm:  Ở các nước phương Tây, người ta có chức danh conjoint professor hay adjunct professor, có thể tạm dịch là giáo sư kiêm nhiệm. Trong một số ngành như y khoa, kinh tế, và kĩ thuật, chức danh giáo sư có thể trao tặng cho những chuyên gia tuy không làm trong đại học, nhưng có đóng góp cho đại học, có hợp tác chặt chẽ với đại học qua nghiên cứu khoa học hay giảng dạy qua hình thức seminar và workshop.  Trong các bệnh viện, một số bác sĩ chuyên khoa cao cấp, tuy nhiệm vụ chính không phải là nghiên cứu khoa học nhưng có đóng góp trong việc huấn luyện thực tập sinh, cũng có thể được bổ nhiệm chức danh giáo sư kiêm nhiệm.  Đây là một hình thức tăng cường sự hợp tác giữa đại học và các trung tâm ngoài đại học như bệnh viện, cơ sở kĩ nghệ và quản lí.

Giáo sư danh dự: Hầu như tất cả các trường đại học ở các nước phương Tây đều có những kế hoạch để biểu dương tên tuổi và danh tiếng của trường mình đến với thế giới bên ngoài.  Để đạt được mục tiêu này, các trường đại học thường dùng chính sách cấp học vị và học hàm danh dự cho những nhân vật quan trọng trong cộng đồng.  Những học vị và học hàm danh dự được trao tặng thường là những văn bằng và chức vụ cao nhất trong đại học như Honorary Professor (giáo sư danh dự).  Người được trao tặng không nhất thiết phải là cựu sinh viên hay cựu nhân viên của trường, cũng không cần phải có quá trình học vấn nào, mà có thể là một nhà hoạt động chính trị, nhà hoạt động xã hội, một nghệ sĩ, nhà báo, công chức … có uy tín tốt.  Ở Úc, cựu Thủ tướng Paul J. Keating, người có trình độ học vấn cấp phổ thông trung học, sau khi rời chính trường, được Trường Đại học New South Wales trao tặng học hàm “Honorary Professor”, để ghi nhận đóng góp của ông trong nỗ lực đem tên tuổi đại học và nước Úc vào thị trường kinh tế Á châu.

Cựu giáo sư: Những giáo sư đã nghỉ hưu nhưng đã và đang có đóng góp quan trọng cho trường đại học cũng cần phải được ghi nhận.  Một trong những hình thức thực tế nhất để ghi nhận đóng góp của những chuyên gia này là phong cho họ chức danh cự giáo sư mà tiếng Anh hay gọi là Emeritus Professor.  Ở các đại học phương Tây, chỉ có một số giáo sư (sau khi nghỉ hưu) có chức danh này.
Giáo sư thỉnh giảng (Visiting Professor) là một chức danh khá phổ biến trong các đại học và viện nghiên cứu phương Tây.  Đây là một loại chức danh được phong tặng cho các nhà khoa học ngoài đại học để họ đến giảng hay nghiên cứu tại đại học trong một thời gian ngắn (thường từ 3 tháng đến 1 năm).  Đây cũng là một hình thức mà các đại học ở các nước đang phát triển “bóc lột” tri thức từ các chuyên gia có tên tuổi một cách khá hữu hiệu.  Thông thường, trường đại học mời các nhà khoa học hay giáo sư nước ngoài có uy tín tốt về một chuyên ngành tiêu ra một thời gian ngắn tại đại học để trao đổi với các giáo sư và nghiên cứu sinh, và qua đó tăng cao khả năng nghiên cứu của trường.  Giáo sư thỉnh giảng thường được đại học trả lương trưng, nhưng đại học tài trợ các chi phí ăn ở và đi lại trong thời gian lưu lại tại đại học.

Tất cả những chức danh giáo sư kiêm nhiệm, giáo sư danh dự, cựu giáo sư, và giáo sư thỉnh giảng là một hình thức nhằm tăng cường mối liên hệ và tương tác giữa đại học với viện nghiên cứu hay kĩ nghệ.  Cần phải có những tiêu chuẩn cho các chức danh giáo sư “không biên chế” như trên, và những tiêu chuẩn này phải “nhẹ” hơn tiêu chuẩn cho các giáo sư biên chế.  Ở các đại học phương Tây, người ta ghi rõ người được phong các chức danh trên đây khi công bố công trình nghiên cứu phải đề tên đại học trong địa chỉ tác giả, chỉ được sử dụng chức danh giáo sư trong những trường hợp thích hợp và cụ thể.  Chẳng hạn như người có chức danh giáo sư kiêm nhiệm chỉ được xưng là “Adjunct Professor” (kèm theo tên trường đại học), chứ không được xưng “Professor”.

***

Chức danh giáo sư là một chức danh cao quí.  Các giáo sư là một phần của bộ mặt của khoa học Việt Nam.  Vì thế, xã hội có quyền đặt kì vọng cao vào những nhà khoa học mang chức danh giáo sư.  Xã hội muốn thấy những người mang hàm giáo sư phải có khả năng tương xứng với đồng nghiệp quốc tế, và có đóng góp thực sự cho sự phát triển khoa học nước nhà.  Trong chiều hướng hội nhập quốc tế có lẽ đã đến lúc chúng ta xem xét lại các tiêu chuẩn và ngạch đề bạt giáo sư ở nước ta. 

Trên thế giới và cả ở nước ta chức danh giáo sư đã trải qua nhiều thay đổi.  Những năm gần đây, nước ta cũng có thay đổi về tiêu chuẩn và qui trình phong chức danh này, tuy có cải tiến theo chiều hướng tốt hơn, nhưng vẫn còn nhiều điều cần phải xem lại để phù hợp với chuẩn mực quốc tế.  Chẳng hạn như việc tính điểm một cách máy móc để làm chuẩn cho việc phong giáo sư theo tôi là không hợp lí và hàm chứa nhiều cơ hội cho tiêu cực.  Tuy nhiên, một trong những điều bất cập hiển nhiên nhất hiện nay là chưa phân biệt được chức danh giáo sư biên chế của đại học và giáo sư kiêm nhiệm, nên dẫn đến tình trạng chỉ có khoảng 1/4 giáo sư thực sự giảng dạy và nghiên cứu khoa học.  Để tránh tình trạng nhập nhằng này, tôi đề nghị cần phải tạo ra những chức danh giáo sư mới và tách bạch những giáo sư thực thụ với những giáo sư kiêm nhiệm, giáo sư danh dự, cựu giáo sư, và giáo sư thỉnh giảng.

TB. Bản ngắn hơn đã đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần với tựa đề : Chức danh “giáo sư”: cần cải cách

Read more ...

Phan Vũ, đi và lạc

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011
http://www.emoihanoipho.com/home/wp-content/uploads/2010/07/01.jpg
Xin giới thiệu một bài tạp bút của Lê Vũ (là một nhạc sĩ ở Sài Gòn) mà anh muốn chia sẻ cùng các bạn về Nhà thơ Phan Vũ, tác giả bài thơ mà Nhạc sĩ Phú Quang đã phổ thành một ca khúc rất hay: Em ơi Hà Nội Phố. Lần đầu tiên tôi nghe bài này cũng đã trên 20 năm (thời Việt Nam mới mở cửa và nhạc từ trong nước bắt đầu xuất hiện ở ngoài này), và thấy ca khúc rất . Hay từ lời thơ đến nhạc điệu. Bây giờ vẫn thấy bài này hay. Qua bài tạp bút này, chúng ta sẽ gặp Phan Vũ là một họa sĩ với nhiều tác phẩm ấn tượng. NVT


Phan Vũ, đi và lạc

Phan Vũ
Từ buổi tóc còn xanh, những chuyến đi đã mang mang ám ảnh "Ta lại xếp mớ hành trang đã bao lần xếp lại/ cho chuyến đi chưa có buổi lên đường"(Đợi chờ). Đi, một hành trình dịch chuyển, một dấn thân hay một kiếm tìm ? Câu trả lời neo lại đâu đó nhưng mặc kệ, Phan Vũ vẫn giẫm lên những rạn nứt im lìm, vẫn thí thân cho những tình cờ cuộc đi để rồi lạc: Một con đường chia thành trăm ngả/ Ngã nào cũng lạc cũng bơ vơ ( Ngày trở về)

Gần 90 năm băng băng cuộc người, Phan Vũ tìm thấy mình, một gã trần trụi đi qua thời gian không có gì trối trăn nhưng ngoảnh đầu lại, anh vẫn hồn nhiên mỉm một nụ cười với dâu bể. Quê cha Đà Nẵng, sinh ra ở Hải Phòng, lớn lên ở Hà Nội, thường trú Sài Gòn. Hỏi anh đâu chốn quê nhà, vầng trán anh nhăn nhíu một vệt buồn: Quê hương không phải "mỗi người chỉ một" nên nói chi một con đường, cuối cùng tất cả là mê lộ trần gian.

Một mình giữa bóng chiều sa / Tha hương ngay trước cổng nhà mẹ cha.

Không chỉ lạc nhà, anh còn lạc nghề. Nghề là chọn lựa với dấn thân nhưng cầm súng, biên kịch, đạo diễn, làm phim, viết báo...nghề nào cũng mất mát, nghiệp nào cũng ê hề quạnh quẹo dù còn đó những giải thưởng với vinh quang. Làm đạo diễn, anh lạc vai diễn lạ mặt mình. Viết báo, anh buồn những tin lặt nhặt ngã năm ngã bảy. Làm thơ đem đọc rồi đốt để hóa vàng . Bỏ đi thôi, 70 tuổi bắt đầu học nghề cầm cọ và anh vui sướng vì ở đây "Tôi tự do. Không ai biên tập, chẳng hoạnh họe" nhưng rồi cọ cũng lạc màu nhòe nhoẹt thành  "Những ngọn cụt"(1). Chiều rồi manh manh vỡ ra một vùng sáng tối mờ mịt gió lên : Tôi đứng giữa miền sáng tối âm dương/ Chiều manh manh/ Rờn rợn xanh ngọn lá/ Hun hút gập ghềnh mê lộ/ Một cõi hoang lầm lũi mãi đi về. ( Suy tư chiều).

Ngày xô vào đêm, đêm trộn ngày, thành viên sót lại của Ban chấp hành Hội Nhà văn 60 năm trước, người lãnh giải thưởng văn học vở kịch Lửa cháy lên rồi năm 1955, tác giả "Em ơi Hà Nội phố", người đọc thơ giữa Hà Nội chào mừng Ngàn năm Thăng Long 2010, vẫn phi về phía trước với lịch làm việc dày kín từ sáng sớm: những sắc màu, triển lãm,  thơ ca  và bè bạn. Thời gian không còn nữa. Tôi phải  "cháy" như ngọn nến đến tận khoảnh khắc cuối cùng...
***
Phan Vũ, cái tên không còn lạ với Hà Nội, Sài Gòn...Ai đó có thể gọi anh là đạo diễn, nhà báo, họa sĩ..., tùy hỉ. Riêng tôi, tôi chỉ muốn gọi anh là khách thơ, một người thơ hồn nhiên sống giữa chợ người kiểu Bùi thi sĩ "ngứa cổ hót chơi" và đem thơ tặng chuồn chuồn châu chấu. Thơ là người và Phan Vũ, chưa một lần thuyết giảng đạo đức, ve viên thơ thành đạn đồng đạn chì hay bày biện mâm cổ tình dục. Thơ, một kiếm tìm bản lai diện mục, một đào xới cõi tâm thức những hoài niệm, một chân thực bày tỏ nỗi niềm trăm năm cũ, một khát khao cho trăm năm sau.  Hỏi mục đích thơ, Phan Vũ ngắn gọn: Tôi làm thơ cho tôi, cho vợ, cho người tình, cho những vùng đất đã đi đã sống.làm thơ không phải viết thơ nên 82 tuổi, anh mới góp nhặt những chợt nhòa chợt hiện và xuất bản tập thơ đầu tay : Thơ Phan Vũ-  trường ca  Em ơi Hà Nội phố, như là " một cuộc trò chuyện" .

1972, Hà Nội khói lửa mịt mùng, bom nổ bến đò Dâu, Phan Vũ đi qua chuyến đò, gõ cửa nhà bạn tặng mấy đóa cúc dại mừng sinh nhật như đã đinh ninh hẹn lời. Và "Em ơi Hà Nội phố" ra đời chính trên những bước chân kiếm tìm "tiếng dương cầm trong căn nhà đổ/ những mảnh vỡ trên thềm..."Em ơi Hà Nội phố", ẩn tàng tâm thức người thơ và tự nó có những niềm riêng bí mật & lạ lẫm. Nếu Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống trong một đêm và hôm sau đã công bố thì "Em ơi Hà Nội phố" có nhiều nhiều dị bản vì đã im lìm gần 40 năm để đến hội mừng Thăng Long ngàn năm tuổi mới bùng vỡ giữa những mặt người Hà Nội. Mỗi bài thơ có số phận riêng của nó và những va đập định mệnh. Nhưng mai sau dù có bao giờ ,Thâm Tâm với Tống biệt hành, Phan Vũ với "Em ơi Hà Nội phố", là những thi sĩ thứ thiệt.

"Em ơi Hà Nội phố", trước hết là khoảng không gian mở cửa về phía hôm qua, ở đó là ngôi nhà số 52 phố Hàng Bún Thang gác cọt kẹt thời gian/ Thân gỗ, là miền tuổi thơ cơn mưa chiếc thuyền giấy, quả bóng lăn, là ngõ phố cột đèn, bờ đê, ngôi chùa cổ đường lượn mái cong, ngói âm dương xô lệch vào chiều. Em không chỉ là tiếng gọi mà gói lại biểu cảm những dịu dàng vấn vít yêu thương: bờ tóc xõa, đôi guốc mộc , mắt lúng liếng, cánh tay trần, hồng đôi má , tiếng dương cầm lả tả, những  chân tìm nhau vội vả và Tiếng thì thầm sớm hôm buổi tối/ Cuộc tình hờ bỗng chốc nghiêm trang...Em còn là thân thương Hà Nôi bốn mùa xuân hạ với chùm hoa thu tím ngát, mùa sen nở, hoàng lan thơm nhụy , hoa sấu ngực đông, hoa sữa thơm tràn, là những mặt người lạ quen: một gã Trương Chi ôm guitare, hóa đá, một bà quán ê a chuyện nàng Kiều, người soát vé áo bành tô cũ nát, là mẹ với đàn con trên bến đợi, là cô hàng hoa, ông đồ xưa bút mực tàu...Hà Nội động chuyển, phi qua những mây bay, tỏa hương hoa như nó là.  

"Em ơi Hà Nội phố" như thế và như thể thước phim quay chậm trên nhiều cung bậc sắc màu & ánh sáng, trên những góc quay đa chiều. Hình là cận cảnh đời thường, có khi tươi nguyên lãng mạn cuộc tình đầu ngọt lịm, có cả bộn bề hiện thực lờ mờ lá bánh củ khoai, mảnh trăng vỡ tiễn người bỏ xứ, có khi lô nhô trắng sáng năm cửa ô, năm cửa gió và ba mươi sáu phố/ bao nhiêu mảnh vỡ, rồi những hình nhân nhợt nhạt vàng son.. Phim cũng đồng thời ghi âm một tiếng rao đêm/ lạc giọng, căn nhà đổ, những lanh canh tiếng chưông reo hay lời kêu khổ. Không, Phan Vũ không trốn chạy hiện thực nhưng nhà thơ cắt nghĩa hiện thực theo cái cảm quan chân thực của mình và thơ cứ như mồ hôi rươm rướm, như máu chảy từ tim ...

"Em ơi Hà Nội phố" còn là bức tranh màu tô lên những phiên bản thời gian. Này là một màu xám hư vô, những hoàng hôn vàng suộm bi ai phế hưng thành quách; cung cách ngàn năm đã cạn để Hàng Mã không còn ngựa xe võng lọng, một Hàng Đào không bán đào, một Hàng bạc không còn thợ bạcđường Trường Thi không chõng không lều. Này là bóng tối buồn dằng dặc những chia tay, con tàu đêm, sân ga lạc. Này là bình minh nắng lên những gót son bờ môi ai đậm đỏ bích đào. Thực pha với mộng, lịch sử chồng xếp lên ngày tháng hôm nay; toa xe điện cuối ngày trộn với tháng chạp mùi hương dài theo phố, lung linh Tháp Rùa trộn với đậm đầy đắng cay những biến động cuộc ngày. Tất cả làm nên một Hà Nội đẹp và buồn nên cứ ám ảnh ám thị. 

Bước vào cõi thơ ""Em ơi Hà Nội phố", Phan Vũ lạc vào hoài niệm và ta lạc trong miền suy tưởng chiêm ngắm Hà Nội trên những cột mốc thời gian. Những hình ảnh chồng xếp lên nhau, vô hình trung trở thành những biểu tượng."Ta còn em" chạy dọc bài thơ thành ra là tiếng kêu của mất mát chứ không hề là một lời chào mừng Em hiện hữu. "Em ơi Hà Nội phố", do vậy, bỗng ngậm ngùi một dự báo tương lai Hà Nội đổi thay không còn có thể nhận ra, để rồi buồn tiễn biệt " nhật ký sang trang/ ghi thêm nổi khổ".

"Em ơi Hà Nội phố" cuối cùng là thơ hay lời tơ than (2)? Phan Vũ không biết, ta cũng mơ hồ chỉ là, bài thơ không bi tráng, không máu me xương xẩu, không cả nước mắt nhưng ngọn gió Nghi Tàm, Cổ Ngư cành phượng vĩ, từng ngõ phố góc đường mùi hương phả vào chúng ta bầu khí thân mật thân quen và níu giữ lòng ta cho đến mai sau. Phan Vũ đã thành công khi dựng lại một Hà Nội máu thịt mà không hề tụng ca, hay thổi phồng cảm xúc. Thơ đích thực, vỡ ra từ một tấm lòng ... Anh đã biết buồn và buồn thật, buồn như ngày chiếc bình vỡ : Trên đường đi đầy hoa đỏ/ Nhưng không có mùi hương thơ ngây/ Bởi trong tôi chiếc bình xanh đã vỡ ( Bình vỡ). Nhưng có ai bắt buộc thơ phải vui ? Và Phan Vũ bảo nhỏ với tôi "Tôi chưa bao giờ thấy vẻ đẹp nào không buồn. Nỗi buồn là sự thật"... Chiều xuống rồi. Đã muộn cho một cuộc đi...

***
Một tác phẩm của Phan Vũ

86 tuổi rồi, Phan Vũ không dừng lại vì cuộc đời như cuộc chơi, dùng lại là chấm hết. Anh đang bận rộn chuẩn bị cho việc đọc thơ- không hề và không phải là trình diễn thơ - lần thứ hai giữa Sài Gòn: trường ca "Bao giờ là mãi mãi", tùy bút thơ về Sài Gòn, dài đến 300 câu. Với anh, Hà Nội chỉ là năm tháng ngụ cư, Sài Gòn mới thực là chốn thường trú, là mảnh đất in dấu chân anh thời trai hào hùng, là vùng đất anh lập nghiệp khi bước vào tuổi trung niên. Nên "Bao giờ và mãi mãi" là một trả đền cho hôm nay, một gửi gắm cho mai sau.

"Bao giờ là mãi mãi" khởi viết từ 1996 và đến 2010 mới tạm hoàn thành, là một chiêm ngắm suy tư về đất và người. Bao giờ về Sài Gòn / Em sẽ tìm hàng me/ Màu xanh non/ Một đêm cây trổ lá/ Đường đến trường tiếng cười rộn rã/ Nắng vừa lên/ Tà áo trắng bay bay...Những con chữ còn đó vỡ ra âm hưởng nồng nàn tiếng gọi ; nhưng không, tâm thức biến cải rồi nên thi pháp cũng loạn gió để vỡ bờ. Trong "Em ơi Hà Nội phố" tuyệt không có nước mắt, máu & mồ hôi, không có khăn tang bia mộ, không chiến tranh và những cái chết cận kề cũng không bừng bừng câu chính khí . "Bao giờ và mãi mãi" gần như ngược lại, là một cái nhìn khác của Phan Vũ về hiện thực, của một người đã bước qua ngưỡng cửa " cổ lai hy". 

"Bao giờ là mãi mãi" trước hết là những câu chuyện tự sự, là mảng ký ức từ thuở tóc xanh cầm súng xa nhà kháng chiến, là nỗi nhớ đồng đội, là suy tư cho hôm nay trước mặt trời dựng xây ngày mới.  Hãy nghe nhà thơ kể chuyện : Mùa thu năm ấy/ Tháng chín hai mươi ba/ Câu hát mài gươm thành câu hát tiễn. Đường qua xóm lập lòe ngọn lửa/ Mái chèo khua nhịp tiếng trống đồn/ Cuộc tiễn quân dài chín dòng sông ...Chất trữ tình đã nhường chỗ cho sử thi, một tiếng thơ hào hùng vang động mà âm ba dội giữa giang hà. Chiến tranh rồi chia cắt, đất nước thành hai đầu nỗi nhớ, câu thơ bỗng nhoi nhói nỗi niềm, tưởng chừng rươm rướm lệ : Lưỡi gươm xẻ dọc con sông/ Giữa đất nước dựng hàng rào phân địa/ Hình hài non sông lỗ chỗ đạn bom...Thơ không thở than, thơ, tiếng kêu xé lòng : Mẹ bồng con ngồi giữa mịt mùng/ Mảnh gang lạnh ghìm trên cánh cửa ...Lần này, và ở đây, Phan Vũ đã bê nguyên hiện thực chiến tranh vào thơ, là kể chuyện sống chết, đối địch, súng gươm và hận thù, kể cả chuyện tưng bừng bi tráng khúc tháng tư : Người lính trẻ giữa ngã tư thành phố/ Nước mắt rưng rưng câu hát vỡ òa/ Sài Gòn ơi ta đã về đây...Đó là khúc dạo đầu của "Bao giờ là mãi mãi" khác biệt với "Em ơi Hà Nội phố" lằng lặng những thanh âm dịu dặt.

"Bao giờ là mãi mãi" cũng chụp và chép, là đoạn phim quay chậm hình ảnh Miền Nam hai mươi năm chiến tranh khốc liệt; Sài Gòn không bình yên. Này là hình ảnh đồng đội, có người vừa chào lạy mẹ cha đã nằm xuống không trở dậy: Có những bàn chân leo qua ngọn núi/ Mộ phần hiu quạnh giữa rừng hoang/ Có người ngã xuống ngay trước ngõ ...Này là dòng máu chảy tràn nuôi bông lúa trổ, nuôi ngày mai nở hoa độc lập: Máu theo dòng chảy con sông/ Hồng Hà, Cửu Long Sông Mã, sông Hương, sông Hàn / màu xanh pha sắc đỏ ...Và còn đó là hình ảnh vợ tôi, tuổi mười sáu vượt làn ranh/ Từ Sài Gòn ra bưng biền... Thơ chững lại, ngập ngừng một chút trao duyên, một nhánh lá xanh giữa rừng rực sắc đỏ của đạn bom mất mát : Nhớ một chiều, giữa rừng tràm/ Anh bẻ một nhánh lá tặng em/ Kể như chùm hoa trao duyên ngày cưới ...Cuộn phim cho ta nhận ra một Phan Vũ khác, một Phan Vũ không tự đóng đinh vào những nỗi buồn tư riêng, những lãng mạn tiểu tư sản. Thơ đã bước qua cái tôi, cũng bước qua bóng tối của trầm tư quá vãng để quăng mình vào hiện thực Miền Nam Thành đồng. Anh không còn lạc trong nỗi buồn tím ngát nhưng mở mắt để nhận diện chân lý : máu chảy là một hiến dâng, một vĩ đại hiến dâng.  Và thơ kêu vang, tra vấn hiện thực : "Bao giờ có một Sài Gòn ngang tầm với những hiến dâng" 

Trường ca Sài Gòn đi về đoạn kết, không kể lể mà phơi bày hiện thực, một Sài Gòn phố ùn tắc, những mặt người âu lo, vết đen hằn lam lũ bàn tay, một Sài Gòn cơm áo gạo tiền trăm nghìn nỗi tính toan theo số nhỏ, một Sài Gòn mà hố sâu giàu nghèo ngày càng phân cách: một bên tầng chín tầng mười, bên kia vùng nước đen, ao tù bùn đọng.  Và Phan Vũ lại lang thang đi và tìm, lại lạc trong những nghĩa trang buồn ở đó : Lính chết trận, thưa ông bà tiên tổ/ sao chỉ một bên là tử sĩ / Trong những ngôi nhà Việt Nam / đều khắp giải khăn tang. Câu hỏi không chỉ đau lòng mà nhèm nhẹp đen bóng tối của nghi kỵ, của mối hận thù chưa thể cởi mở sau bao nhiêu năm Nam Bắc sum họp. Trường ca khép lại hình ảnh Phan Vũ cô quạnh trên đường, lạc trong giấc mơ và những chiêm nghiệm nhân sinh,  miệng lầm thầm một "cầu nguyện lớn" : Có muộn không? Một quy mô siêu độ kinh cầu/ Vinh danh liệt sĩ/ Và tưởng niệm hương hồn toàn tử sĩ/ cả những thường dân trong cuộc chiến vong thân.

"Bao giờ là mãi mãi" trải ra trên chiều rộng của Miền Nam và chiều dài hai mươi năm Nam Bắc phân cách chia lìa với tang thương mất mát & hy sinh.  Hình ảnh Sài gòn nổi lên trong giấc mơ bận bịu câu hỏi lặp đi lặp lại " Bao giờ về Sài Gòn". Về, chỉ để nghe một tiếng rao đêm, ăn một chén chè khuya phố,  để " ra bến sông ngắm những con tàu". Thơ vọng âm từ hơi thở cuộc sống đời thường mà nồng nàn lãng mạn. Nhưng điệp khúc chủ đạo của trường ca lại là một phát vấn, một nghiêm trang câu hỏi : "Bao giờ có một Sài Gòn ngang tầm với những hiến dâng"? Câu hỏi treo ở đó cho cả mai sau.

***

Thơ là người, người thơ không dành lấy cho mình danh hiệu phấn son, khẩu phần chia chát, cũng không đấu đá biện bày những hí lộng với ngoa ngôn. Đọc và nhìn lại Phan Vũ từ "Em ơi Hà Nội phố"  đến "Bao giờ là mãi mãi", ta nhận ra một người thơ hồn nhiên đi giữa càn khôn bộn bề mà chẳng hề bận bịu với lo toan. Anh đi, đi và để lạc: lạc đi từ chốn quê nhà, lạc cả nghề lẫn nghiệp, nhất là lạc trong cõi thơ, những hoài niệm và giấc mơ cứ vướng chân anh. Thơ Phan Vũ thuộc về hoài niệm nhưng lại mở ra những dự báo cho tương lai cho nên thơ & người thơ sẽ là của hôm sau và hôm sau nữa./.

Tp Hồ Chí Minh 21/12/2010 . LV

•1-     Bức tranh tự họa của Phan Vũ
•2-     Nguyễn Du : Văn chương tàn tích nhược như ti . Bùi Giáng dịch thành : văn chương tiếng thở như lời tơ than
•3-     Chữ in nghiên trích thơ Phan Vũ
•4-     Tài liệu trích dẫn  : Thơ Phan Vũ ( đã in 2008). Trường ca "Bao giờ và mãi mãi " chưa xuất bản
Read more ...

Kĩ năng nghiên cứu: lập luận và trích dẫn

Thứ Tư, 23 tháng 2, 2011
http://meds.queensu.ca/assets/research-copy.jpg
Một bài báo đăng trên tạp chí Tia Sáng có tựa đề bắt mắt “Hiện trạng giáo dục Việt Nam nhìn từ quan điểm phê phán của triết học Nietzsche. Thế nhưng đọc qua những lí luận, lập luận, và nhất là cách sử dụng tài liệu tham khảo thì tôi cảm thấy thất vọng. Ở đây, tôi không có ý phê bình sinh viên tác giả bài này, mà chỉ muốn lấy đây như là một trường hợp để bàn về văn hóa trích dẫn và cách lập luận trong học thuật.




Viết một bài báo cho báo chí phổ thông dĩ nhiên là dễ hơn viết một bài báo mang tính học thuật. Bài báo phổ thông không nhất thiết phải có tài liệu tham khảo, nhưng bài báo học thuật thì bắt buộc phải trình bày nguồn gốc những phát biểu của mình. Bài báo học thuật còn đòi hỏi tác giả phải lập luận cho chặt chẽ, chứ không thể lan man như một bài báo phổ thông.  Ở phương Tây, học sinh trung học đã học cách lập luận và dùng tài liệu tham khảo, cho nên khi lên đại học, họ cũng đã quen với văn hóa học thuật một phần nào đó.  Đến khi viết luận văn tốt nghiệp, họ phải làm việc với thầy cô hướng dẫn, và quán triệt được cách lập luận cũng như cách trích dẫn.  Thế nhưng ở nước ta, những kĩ năng mềm như thế không được chú trọng, và hệ quả là sinh viên không biết cách lí giải vấn đề cho logic (có nhiều em thậm chí viết văn chẳng đâu vào đâu cả).  Vài năm gần đây, người ta nói đến kĩ năng mềm, và kĩ năng đọc và viết được đề cập đến nhiều lần.

Mới đây, tôi đọc trên Tia Sáng một bài viết bàn về hiện trạng giáo dục và quan điểm phê phán của triết học Nietzsche.  Bài báo là một luận văn cử nhân trong chương trình “cử nhân tài năng”.  Tạp chí còn chua thêm rằng “Bài tiểu luận này được thực hiện trong khuôn khổ chuyên đề hướng dẫn cách đọc một tác phẩm triết học tại Khoa Văn học và Ngôn Ngữ, ĐHKHXHNV TP HCM” như để tăng phần trang trọng của bài luận văn. Với một chương trình như thế, chúng ta kì vọng tác giả (sinh viên) và người hướng dẫn phải thể hiện tinh thần học thuật một cách nghiêm túc.  Thế nhưng, theo tôi nội dung chưa đạt tính học thuật, chưa thể hiện được tính khoa học nghiêm chỉnh.

Theo tôi hiểu, tác giả muốn nói rằng vì đại học Việt Nam thiếu văn hóa tranh luận theo tinh thần của Nietzsche, nên các đại học Việt Nam bị xếp vào cuối bảng trong các bảng xếp hạng đại học trên thế giới.  Nhưng tôi e rằng cách lập luận chưa thuyết phục.  Đáng lẽ tác giả phải chứng minh rằng sinh viên Việt Nam chưa có tinh thần phê phán, nhưng thay vì làm thế, tác giả lại phán một câu “Đáng tiếc là tinh thần phê phán đó vẫn chưa phát triển trong xã hội Việt Nam hiện nay nói chung, và trong trường học Việt Nam nói riêng.”  Nói thì dễ, nhưng tìm dữ liệu để minh chứng cho nhận xét của mình không phải là dễ, và trong trường hợp này tác giả chưa làm được việc đó. Lấy một trường hợp của một sinh viên để làm cơ sở cho nhận xét mang tính khái quát hóa của mình là gán ghép.

Đến vế thứ hai là “hiện trạng giáo dục Việt Nam”, tác giả cũng lí giải chưa tốt, chưa đạt. Bảng xếp hạng của webometrics không phải là một bảng xếp hạng nghiêm chỉnh, mà chỉ là … một trò chơi internet không hơn không kém.  Những người trong webometric dựa vào số lần truy cập vào website của trường đại học để xếp hạng.  Đó là một kiểu làm tài tử, hài hước, trẻ con, và vô duyên.  Do đó, cho rằng một vài đại học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng 100 trường Đại học hàng đầu Đông Nam Á năm 2010 là thể hiện đẳng cấp của đại học Việt Nam là một sai lầm lớn.

Không có bảng xếp hạng nào trên thế giới có chỉ số về tinh thần phê phán trong cách tính điểm.  Cũng chẳng có thước đo nào để phản ảnh cái gọi là “thực trạng”.  Chẳng có thước đo nào phản ảnh tinh thần phê phán.  Do đó, không thể nào chứng minh được mối tương quan giữa tinh thần phê phán và thực trạng đại học.  Ấy vậy mà tác giả hạ bút viết “[…] tinh thần phê phán trong học tập của sinh viên Việt Nam vẫn còn rất yếu kém. Sản phẩm của cách thức giáo dục này khó có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng gay gắt của thời đại toàn cầu hóa. Bảng xếp hạng 100 trường Đại học hàng đầu Đông Nam Á năm 2010 của Webometrics đã minh chứng cho điều đó: Việt Nam chỉ có 6 trường lọt vào danh sách với các thứ hạng lần lượt là 41, 46, 58, 61, 66 và 85; hiện chưa đại học nào của Việt Nam có vị trí trong bảng xếp hạng các đại học hàng đầu châu Á cũng như thế giới [4].” Can đảm thật!  Tôi nghĩ cái ý tưởng đi tìm một mối liên quan giữa hai khía cạnh đó là một sự gượng ép, chứ hoàn toàn chẳng có tính khoa học nào cả.

Thật ra, trong một bài báo học thuật, người ta phải lí giải bằng nhiều cách, phải đặt vấn đề dưới nhiều lăng kính, phải tự phản biện để đi đến kết luận đáng tin cậy. Chẳng hạn như nếu chúng ta lấy Nhật và Trung Quốc (hay thậm chí Thái Lan), những nơi mà sinh viên cũng không có tinh thần phê phán như phương Tây, thế nhưng nhiều đại học của họ được xếp hạng “top” trong danh sách đại học hàng đầu trong vùng và trên thế giới (như trường hợp của Nhật). Trong khi bàn luận một bài báo học thuật, tác giả phải tự lần lược bác bỏ những diễn giải của mình để sau cùng đi đến một diễn giải (cũng của mình) nhưng là đáng tin cậy nhất. Cách làm như thế cho người đọc thấy tác giả là người đã chịu khó đầu tư suy nghĩ về vấn đề, đã tỏ ra khách quan, chứ không phải khăng khăng dựa vào một cách diễn giải.

Phần tài liệu tham khảo là một khiếm khuyết lớn.  Bài báo chỉ có 7 tài liệu tham khảo, mà trong đó có đến 5 là từ internet!  Trong 5 bài từ internet, có 1 bài chỉ là bản tin tức và 4 bài là bài báo phổ thông (không phải học thuật).  Đó là một điều bất bình thường.  Trong học thuật, tồn tại một nguyên tắc quan trọng là tác giả phải trích dẫn bản gốc của tài liệu tham khảo, chứ không trích từ nguồn thứ phát (secondary sources).  Chẳng hạn như nếu muốn trích dẫn Nietzsche, thì tác giả phải đọc Nietzsche, chứ không phải trích dẫn từ một nguồn khác đọc hay dịch Nietzsche.  Lí do đơn giản là người ta có thể hiều sai hoặc dịch sai Nietzsche, và trích dẫn từ nguồn thứ phát sẽ có thể dẫn đến hệ quả sai dây chuyền.  Ấy thế mà trong bài luận văn, tác giả trích nhiều nguồn thứ phát như thế.  Chẳng hạn như khi viết về chỉ số phát triển giáo dục của UNESCO, tác giả không trích tài liệu của UNESCO mà lại trích từ … Đài Tiếng nói Việt Nam!  Đó là một cách làm khó chấp nhận được trong học thuật.
Thật ra, không chỉ bài luận văn này, mà nhiều luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ ở trong nước mà tôi đọc được cũng mắc phải những sai sót sơ đẳng trên.  Tôi chỉ dùng bài luận văn này như là một trường hợp để bàn về kĩ năng nghiên cứu mà thôi.

Không chỉ tác giả mà chính người hướng dẫn phải chịu trách nhiệm một phần lớn.  Tác giả là sinh viên, mới chập chững vào lĩnh vực học thuật và nghiên cứu, nên những sai sót về lập luận và lí luận còn có thể châm chước được, nhưng thầy cô để cho sinh viên làm như thế là khó có thể chấp nhận được.  Thầy cô mà để cho sinh viên sử dụng tài liệu tham khảo thiếu tính học thuật như vừa nêu cũng là một điều đáng trách.  Theo tôi Tia Sáng cũng đáng trách.  Tia Sáng đăng bài này như là một bài báo phổ thông thì được, nhưng như là một bài luận văn mang tính học thuật thì Tia Sáng quả có vấn đề về phán đoán.

Nói tóm lại, toàn bộ luận văn chưa đạt yêu cầu và tiêu chuẩn học thuật.  Tác giả chưa nêu được một giả thuyết nào để kiểm định, mà đã vội vã đi chứng minh mối liên hệ giữa tinh thần phê phán và tình trạng đại học yếu kém của Việt Nam.  Sử dụng những nguồn tài liệu thứ phát là một điều đáng trách.  Một lớp cử nhân tài năng và một “chuyên đề hướng dẫn cách đọc một tác phẩm triết học tại Khoa Văn học và Ngôn Ngữ” mà lại cho ra một “sản phẩm” như thế thì thật là quá đáng tiếc.  Xin nói lại như để nhấn mạnh, những ý kiến trên đây không phải phê phán hay chỉ trích gì tác giả vốn mới là sinh viên, nhưng chỉ muốn nói rằng một lớp học tài năng mà còn như thế thì nên xem lại cách giảng dạy một cách nghiêm túc.

NVT

PS. Viết xong entry này thì thấy “Một cái nhìn về giáo dục đại học Hà Lan và Việt Nam” rất đáng đọc. Mặc dù bài viết chỉ là một bài báo phổ thông, nhưng rõ ràng em sinh viên này đã am hiểu cách lí luận, và diễn giải nội dung một cách mạch lạc và khúc chiết.

======
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=3819

Hiện trạng giáo dục Việt Nam nhìn từ quan điểm phê phán của triết học Nietzsche
 
Bùi Quang Thục Anh - SV lớp cử nhân tài năng
Khoa Văn học và Ngôn Ngữ, Trường ĐHKHXHNV TP HCM

Trong tâm thức người Việt Nam, “tranh luận” dễ bị đồng nhất với “tranh cãi” hay “tranh chấp”, phê phán thường bị hiểu ngầm là “chê bai, coi thường”. Thêm vào đó là truyền thống “Tôn sư trọng đạo”: thầy gần như cha hoặc thậm chí còn hơn cha, mà cha thì chỉ “dạy từ trên xuống”. Những lề lối tư duy và hành động ấy đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc, quy định cách thức mà hệ thống giáo dục của chúng ta đang vận hành.

Theo Chỉ số phát triển giáo dục (EDI) năm 2008 do UNESCO công bố, Việt Nam đứng thứ 79/129 nước, tức là tụt 9 bậc so với năm 2004 dù đầu tư của Chính phủ cho giáo dục không ngừng tăng lên. Kết quả này khiến chúng ta phải “giật mình” về chất lượng của nền giáo dục [1]. Một trong những lý do khiến đại học Việt Nam nói riêng, giáo dục Việt Nam nói chung vẫn ở trong tình trạng yếu kém, thiết nghĩ chính là do sự thiếu vắng nghiêm trọng của tinh thần phê phán. Đây cũng chính là vấn đề mà chúng tôi muốn soi chiếu từ quan niệm về phê phán của triết học Nietzsche, trong bài viết này.

“Tranh luận” không phải là “tranh cãi” hay “tranh chấp”


Ngay từ những trang đầu tiên của cuốn Nietzsche và triết học [2], Deleuze xác định rõ quan niệm của Nietzsche về sự phê phán: Phê phán không phải là một phản ứng của sự phẫn hận, mà là biểu hiện tích cực của một lối sống tích cực: tấn công nhưng không trả thù: tính xâm hấn tự nhiên của một phương thức tồn tại, sự độc ác thần thánh mà không có nó ta không thể hình dung được sự hoàn thiện (tr. 3-4).

Deleuze sau đó còn nhiều lần nhắc lại tư tưởng đó của Nietzsche, chẳng hạn: [...] sự phê phán là sự phủ định dưới hình thức mới này: sự phá hủy trở thành hoạt năng, thành tính xâm hấn hết sức gắn bó với khẳng định. Phê phán là phá hủy trong tư cách là niềm vui , là sự xâm hấn của kẻ sáng tạo. Kẻ sáng tạo các giá trị không tách biệt với kẻ hủy diệt, không tách biệt với một tội đồ hay một người phê phán: phê phán các giá trị đã được thiết lập, phê phán các giá trị phản ứng, phê phán sự hèn hạ (trang 121)
.

Nếu ứng dụng tinh thần này vào giáo dục, ta sẽ thấy, ngay từ những cấp lớp đầu tiên, học sinh cần được rèn luyện tư duy phê phán một cách khoa học. Cụ thể, học sinh được rèn luyện vận dụng tích cực trí tuệ vào việc phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc… từ khả năng quan sát và kinh nghiệm, từ việc thu thập chứng cứ, thông tin, lý lẽ nhằm đưa ra nhận định về sự việc, ra quyết định, và hình thành cách ứng xử của mình. Tư duy phê phán do đó trở thành nền tảng để phát triển tư duy độc lập - yếu tố không thể thiếu khi con người phải thường xuyên đối diện với những vấn đề đa dạng trong cuộc sống. Phê phán tích cực giúp học sinh, sinh viên tránh được cái sai, xấu, lỗi thời và hướng đến cái mới tốt hơn, hoàn thiện hơn trên con đường sáng tạo không ngừng.

Đáng tiếc là tinh thần phê phán đó vẫn chưa phát triển trong xã hội Việt Nam hiện nay nói chung, và trong trường học Việt Nam nói riêng.

Một trong những đặc điểm văn hóa và tư duy của người Việt là đề cao quan hệ xã hội theo hướng “dĩ hoà vi quý”. Khác với phương Tây, ý thức cá nhân trong xã hội truyền thống Việt Nam hoàn toàn bị thủ tiêu. Do đặc điểm này, “tranh luận” sẽ dễ dàng bị đồng nhất với “tranh cãi” hay “tranh chấp”, nghĩa là những thái độ tiêu cực mang tính cá nhân, cục bộ, địa phương hay gây mất đoàn kết. Vì vậy, trong tâm thức người Việt Nam, phê phán thường bị hiểu ngầm là “chê bai, coi thường”. Thêm vào đó là truyền thống “Tôn sư trọng đạo”: thầy gần như cha hoặc thậm chí còn hơn cha, mà cha thì chỉ “dạy từ trên xuống”. Những lề lối tư duy và hành động ấy đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc, quy định cách thức mà hệ thống giáo dục của chúng ta đang vận hành.

Cụ thể, cách thức giáo dục nặng về truyền đạt, nhồi nhét kiến thức và có phần áp đặt, theo mẫu, thiếu phát huy suy nghĩ độc lập vẫn đang tồn tại phổ biến ở nước ta hiện nay. Thật khó có thể đào tạo nên những con người năng động sáng tạo một khi học sinh, sinh viên luôn chịu áp lực rất lớn không những vì chương trình quá tải mà còn vì phải làm theo những bài mẫu, đáp án mẫu, phải ghi nhớ những kiến thức và lý lẽ có sẵn trong bài giảng, bất chấp nó có còn phù hợp với thực tế cuộc sống và kiến thức của nhân loại hay không. Không những thế, cách thức giáo dục này còn làm mai một dần tính năng động và năng lực tư duy của học sinh, sinh viên và tạo ra những con người giỏi bắt chước hơn sáng tạo, nhìn sự việc bằng con mắt của người khác, suy nghĩ và hành động bằng cái đầu của người khác.

Khác biệt không có nghĩa là lập dị, không biết không có nghĩa là kém hiểu biết

Vừa qua, báo chí đã dành sự quan tâm đáng kể cho sự kiện một sinh viên Đại học Quốc gia TP.HCM, sau khi “cãi” một giáo sư người Mỹ đã được ông tài trợ chi phí để sang Mỹ tham quan và học tập [3]. Việc một sinh viên “dám” phản biện giáo sư – vốn rất bình thường trong các trường học ở phương Tây - lại được công luận trong nước chú ý như thế, chứng tỏ tinh thần phê phán trong học tập của sinh viên Việt Nam vẫn còn rất yếu kém. Sản phẩm của cách thức giáo dục này khó có thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng gay gắt của thời đại toàn cầu hóa. Bảng xếp hạng 100 trường Đại học hàng đầu Đông Nam Á năm 2010 của Webometrics đã minh chứng cho điều đó: Việt Nam chỉ có 6 trường lọt vào danh sách với các thứ hạng lần lượt là 41, 46, 58, 61, 66 và 85; hiện chưa đại học nào của Việt Nam có vị trí trong bảng xếp hạng các đại học hàng đầu châu Á cũng như thế giới [4].

Nền giáo dục của chúng ta đang nợ người dân một lời thừa nhận thẳng thắn, trung thực về sự thật và cội nguồn của tình trạng yếu kém đó.

Nietzsche nói: Tư duy có nghĩa là: khám phá, sáng tạo những khả năng mới của đời sống (tr. 139). Hệ thống giáo dục của chúng ta cần rèn luyện cho học sinh, sinh viên thói quen không bao giờ mặc nhiên công nhận điều gì mà chưa có cơ sở chắc chắn và luôn ý thức rằng: không có gì là tuyệt đối; ai cũng có thể sai, sách cũng có thể sai; chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về đa số. Nghĩa là, học sinh, sinh viên cần được giáo dục để biết “cười” khi nghe sự khẳng định về một sự thật, một chân lý duy nhất, giống như “[...]Các thần linh đã chết, nhưng họ chết vì cười, khi nghe một Đức Chúa nói rằng mình là Đức Chúa duy nhất.” (tr. 5)

Ngoài ra, nền giáo dục cũng cần rèn luyện cho học sinh bản lĩnh ứng xử với những trở ngại có thể có từ cộng đồng mà tinh thần phê phán và tư duy phản biện còn chưa cao. Đó là khi ý kiến của bản thân mâu thuẫn với ý kiến lãnh đạo thì dễ bị cho là sai, không trung thành; ý kiến khác biệt với suy nghĩ của đa số thì dễ bị quy chụp là lập dị; khi mạnh dạn nói “điều đó tôi không biết, không thể” thì dễ bị cho là kém hiểu biết; thay đổi ý kiến khi phát hiện mình sai dễ bị cho là không có lập trường kiên định… Nghĩa là, cần giúp học sinh nuôi dưỡng “bản năng hướng về tri thức bị buộc không ngừng phải từ bỏ mảnh đất nơi con người quen sống và lao vào cái không chắc chắn” để “tư duy vượt lên trên những giới hạn mà đời sống ấn định cho nó”. Khi đó, “tư duy không còn là một hệ số, đời sống không còn là một phản ứng” (tr. 140).

Thực tế cho thấy bộ máy Nhà nước với việc đề cao tinh thần phê phán và tinh thần phản biện của mọi tầng lớp trong xã hội chính là nền tảng cho sự phát triển của các quốc gia. Ngược lại, một xã hội với số đông những người thụ động trong tư duy và hành động là một xã hội trì trệ, việc phát huy nguồn lực trí tuệ sẽ bị kìm hãm, nhất là khi những người đó lại giữ vị trí quan trọng trong bộ máy lãnh đạo. Tình trạng đó sẽ tạo nên một trở lực đáng kể đối với sự phát triển của bất kì quốc gia nào.

Không có phát minh mới nào, chủ trương, chiến lược hợp lý nào, giải pháp đúng đắn nào lại không dựa trên cơ sở tư duy phân tích, phê phán để phủ định cái sai, cái dở, tiếp thu và phát huy cái đúng, cái hay trên tinh thần sáng tạo, từ đó tìm ra cái mới. Chính vì thế, kỹ năng phê phán phải là chiếc chìa khóa mà hệ thống giáo dục nước ta cần trao cho học sinh, sinh viên để mở ra cánh cửa tư duy độc lập, sáng tạo nhằm phát huy trí tuệ của dân tộc.

Bài tiểu luận này được thực hiện trong khuôn khổ chuyên đề hướng dẫn cách đọc một tác phẩm triết học tại Khoa Văn học và Ngôn Ngữ, ĐHKHXHNV TP HCM.

[1] Xem thêm tại http://vovnews.vn/Home/Viet-Nam-dung-thu-79-ve-Chi-so-phat-trien-Giao-duc-cho-moi-nguoi/200811/98735.vov
[2] Nietzsche và triết học, Gilles Deleuze, Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb. Tri thức, 2010. Các trích dẫn từ đây về sau đều lấy từ công trình này.
[3] Xem thêm tại http://tuoitre.vn/nhip-song-tre/415241/anh-sinh-vien-%E2%80%9Cngo-nguoc%E2%80%9D-duoc-moi-di-my.html
[4] Xem thêm tại www.webometrics.info

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.    Gilles Deleuze, Nietzsche và triết học, Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb. Tri thức, 2010.
2.    Dương Ngọc Dũng, Tư duy sáng tạo và phê phán trong giáo dục Mỹ, 09/02/2003:
http://www.chungta.com/Desktop.aspx/GiaoDuc/DeXuat-GiaiPhap-GD/Tu_duy_sang_tao_va_phe_phan_trong_giao_duc_My/
http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1546:phe-phan-va-sieu-nhan-nietzsche-qua-din-gii-ca-deleuze&catid=100:vn-hoa-lch-s-trit-hc-giao-dc&Itemid=161
3. Nguyễn Thị Từ Huy, Phê phán và siêu nhân (Nietzsche qua diễn giải của Deleuze), 10/10/2010:
4.    Trần Ngọc Thêm (2010), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
5.    Trần Thượng Tuấn , Tư duy phê phán, 09/10/2010:
http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/ykien/41544/Tu-duy-phe-phan.html
Read more ...

Bộ trưởng Quốc phòng của Đức bị tố cáo đạo văn

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2011
http://www.topnews.in/files/Karl-Theodor%20zu.jpg
Một nghi án đạo văn đang gây xôn xao chính trường Âu châu. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đức bị một giáo sư Đức cáo buộc đạo văn trong luận án tiến sĩ năm 2006. Ông bộ trưởng tự nguyện không dùng danh xưng "Doctor" trong khi đại học thẩm định cáo buộc đạo văn. Vụ việc cho thấy ở Âu châu người ta rất nghiêm chỉnh trong vấn đề học thuật, rất khác với Việt Nam, nơi mà đạo văn được xem là chuyện thường ngày và chẳng mấy ai quan tâm.


Ông Karl-Theodor zu Guttenberg là một ngôi sao đang lên trong chính trường Đức.  Xuất thân từ một gia đình danh giá, ông tham gia hoạt động chính trị và trở thành Bộ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lúc mới 39 tuổi trong Nội các của Thủ tướng Angela Merkel. Giới bình luận thời sự cho rằng ông có triển vọng làm thủ tướng tương lai của Đức, thay thế bà Angela Merkel.  Nhưng sự việc chung quanh nghi vấn đạo văn đã đưa ông vào một tình thế khó xử …

Hình chụp lúc ông Guttenberg đi thị sát tình hình ở Afghanistan với danh xưng Doctor zu Guttenberg. Nguồn: Spiegel

zu Guttenberg từng theo học chính trị học và luật tại Đại học Bayreuth. Năm 2007 ông bảo vệ luận án tiến sĩ luật (giáo sư hướng dẫn là Peter Haberle.  Nhưng Giáo sư Andreas Fischer-Lescano của Đại học Bremen phát hiện những đoạn văn và câu văn trùng hợp với các tác phẩm khác trong quá trình đọc mà ông mô tả là một cuộc thẩn định thường lệ. Người ta lập tức công bố luận án của ông trên internet, và ngay sau đó việc phân tích luận án của ông trở thành một dự án hợp tác trực tuyến của công chúng và chuyên gia!

Tờ báo Süddeutsche Zeitung phát triển những biểu đồ để độc giả có thể   đối chiếu luận án của zu Guttenberg và nguồn mà người ta cáo buộc ông đạo văn.  Dựa vào đó, người ta đã chỉ ra nhiều vấn đề trong đó.  Có nhiều câu văn được trích dẫn hay từ nhiều nguồn nhưng ông không ghi trong tài liệu tham khảo.  Có người thậm chí làm thống kê cho thấy có đến 76 đoạn văn hoặc câu văn trùng hợp với những nghiên cứu hoặc tác phẩm đã công bố trước đây mà ông dùng trong luận án nhưng không đề nguồn.  Những nguồn mà ông lấy hay trích dẫn là từ các bài báo trên báo chí phổ thông, bài báo trên các tập san, diễn văn, v.v…

Hình của báo Süddeutsche Zeitung (bấm vào hình sẽ có thể đối chiếu những chỗ nghi đạo văn)

Trước cáo buộc đạo văn, ông Guttenberg đã tự nguyện tạm thời không dùng danh xưng “Doctor”.  Trong suốt tuần qua ông Guttenberg cố giữ im lặng; ông chỉ nói rằng ông chờ sự phán xét của Đại học Bayreuth (nơi ông trình luận án tiến sĩ).  Trường đại học Bayreuth tuyên bố rằng họ sẽ kiểm tra cáo buộc về đạo văn.  Ông Guttenberg hứa rằng ông sẽ hợp tác với đại học để minh bạch hóa vấn đề.  Đến thứ Sáu tuần qua, Guttenberg tuyên bố rằng ông sẽ tạm thời (ông nhấn mạnh “tạm thời”) bỏ không dùng danh xưng “Doctor” trong thời gian đại học điều tra.  Ông tỏ ra hối tiếc về những sai sót trong luận án.

Sự nghiệp chính trị của ông bộ trưởng Quốc phòng trẻ tuổi này xem chừng có nguy cơ cao.  Một nghị viên (Dieter Wiefelspütz) có ảnh hưởng lớn trong Quốc hội Đức nói rằng "Một người không thể là một bộ trưởng với một vết nhơ như thế." Một nghị viên khác Đảng SPD nghĩ rằng "khi các bộ trưởng mất uy tín thì họ không thể nào làm việc được." Chưa biết trong tương lai, sự nghiệp của ông Guttenbert sẽ đi đến đâu, nhưng hiện nay thì nguy cơ cao là ông sẽ bị giáng chức, hay ít ra là triển vọng làm thủ tướng càng ngày càng xa tầm tay ông.

Nhìn người lại nghĩ đến ta.  Ở Đức, cũng như ở Âu châu nói chung, có rất ít bộ trưởng có văn bằng tiến sĩ, nên một bộ trưởng với danh xưng “Doctor” gây chú ý của công chúng, và chịu sự soi mói của công chúng.  Còn ở nước ta, phân nửa nội các có bằng tiến sĩ, thậm chí 4/14 người trong Bộ Chính trị có bằng tiến sĩ, nhưng không ai biết được chất lượng của những luận án này ra sao.  Trong bối cảnh đạo văn lan tràn trong hệ thống đại học, chỉ biết hi vọng rằng với đạo đức học thuật và uy tín chính trị, các luận án tiến sĩ của bộ trưởng nước ta đều là những luận án xuất sắc.

NVT
Read more ...